
Ninh Bình nằm ở cực Nam của vùng đồng bằng Bắc bộ, xen giữa lưu vực sông Hồng và sông Mã, nơi tiếp giáp và ngăn cách miền Bắc với miền Trung bởi dãy núi Tam Điệp hùng vĩ.. Ninh Bình có quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy qua, cùng hệ thống sông ngòi phong phú, với cảng Ninh Bình, có điều kiện phát triển mạnh giao thông cả đường bộ, đường thủy, giao lưu thuận lợi với các địa phương trong nước và quốc tế. Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội hơn 90 km, trên tuyến đường quốc lộ 1A xuyên Bắc – Nam quan trọng vào bậc nhất của nước ta; và đường sắt xuyên Bắc – Nam đi qua (đoạn chạy qua đất Ninh Bình dài 35 km); với hai nút giao thông chính là thị xã tỉnh lỵ Ninh Bình và thị xã Tam Điệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế – văn hóa với cả hai miền đất nước.Ninh Bình nằm ở cực Nam của vùng đồng bằng Bắc bộ, xen giữa lưu vực sông Hồng và sông Mã, nơi tiếp giáp và ngăn cách miền Bắc với miền Trung bởi dãy núi Tam Điệp hùng vĩ.. Ninh Bình có quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy qua, cùng hệ thống sông ngòi phong phú, với cảng Ninh Bình, có điều kiện phát triển mạnh giao thông cả đường bộ, đường thủy, giao lưu thuận lợi với các địa phương trong nước và quốc tế. Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội hơn 90 km, trên tuyến đường quốc lộ 1A xuyên Bắc – Nam quan trọng vào bậc nhất của nước ta; và đường sắt xuyên Bắc – Nam đi qua (đoạn chạy qua đất Ninh Bình dài 35 km); với hai nút giao thông chính là thị xã tỉnh lỵ Ninh Bình và thị xã Tam Điệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế – văn hóa với cả hai miền đất nước.
Với diện tích tự nhiên là 1398,7km2, đứng thứ 52 trong 53 tỉnh, thành phố (chỉ lớn hơn diện tích tự nhiên của thành phố Hà Nội). Tuy là một tỉnh không lớn nhưng địa hình rất đa dạng: có núi sông, đồng bằng, vùng biển, mang đầy đủ sắc thái địa hình Việt Nam thu nhỏ. Có 8 đơn vị hành chính gồm 6 huyện và 2 thị xã trực thuộc tỉnh: huyện Nho Quan, thị xã Tam Điệp là vùng đồi núi; các huyện Gia Viễn, Hoa Lư, Yên Mô thuộc vùng nửa đồi núi; diện tích đồng bằng và ven biển chủ yếu thuộc huyện Kim Sơn, Yên Khánh và thị xã Ninh Bình chỉ chiếm 1/5 diện tích tự nhiên của tỉnh.
Cộng đồng các dân tộc đang sinh sống trong tỉnh gồm có 23 dân tộc: đa số là dân tộc Kinh chiếm trên 98,2%; đứng thứ hai là dân tộc Mường chiếm gần 1,7%; các dân tộc như Tày, Nùng, Thái, Hoa, H’Mông, Dao mỗi dân tộc có từ trên một chục đến hơn một trăm người. Trong số các dân tộc ít người sinh sống trong tỉnh, dân tộc Mường đã định cư khá lâu đời ở các xã thuộc miền núi cao huyện Nho Quan, thị xã Tam Điệp và là một bộ phận của cư dân người Mường sinh sống dọc theo dải núi đá vôi từ Hòa Bình đi Thanh Hóa; các phong tục tập quán sinh hoạt, truyền thống văn hóa mang nét đặc trưng của cộng đồng dân tộc Mường của Việt Nam. Các dân tộc ít người khác sống phân tán, rải rác ở các địa phương trong tỉnh, không hình thành cộng đồng dân tộc nhất định, đa số đó có quan hệ hôn nhân, gia đình hoặc trong quá trình đi tìm đường sinh cơ lập nghiệp mà đến định cư ở địa phương và chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong tục, tập quán sinh hoạt, sản xuất, truyền thống văn hóa của người Kinh.

Danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng: Cố đô Hoa Lư (tại xã Trường Yên- Hoa Lư)- là kinh đô của Nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên ở Việt Nam, hiện nơi đây có đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành; khu du lịch Tam Cốc- Bích Động (tại xã Ninh Hải- Hoa Lư) đã được tặng chữ: ” Nam thiên đệ nhị động” hay “Vịnh Hạ Long cạn”; Vườn Quốc gia Cúc Phương (thuộc huyện Nho Quan) với diện tích rừng nguyên sinh khoảng 22.000 ha, có nhiều động thực vật quý hiếm, có cây Chò ngàn năm tuổi, có động Người xưa; khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long, động Vân Trình, nước nóng Kênh Gà, khu hang động Tràng An, Nhà thờ đá Phát Diệm, khu du lịch sinh thái hồ Đồng Chương, khu phòng tuyến Biện Sơn- Tam Điệp…
Vùng đất Ninh Bình thời xa xưa phần lớn là vùng ngập mặn thuộc huyện Chu Diên, quận Giao Chỉ. Trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, Ninh Bình có nhiều tên gọi khác nhau như: thế kỷ thứ X gọi là châu Trường Yên; thế kỷ XIII gọi là phủ Trường Yên; thế kỷ XVIII (thời Hậu Lê) gọi là Thanh Hoa ngoại trấn; dưới triều nhà Nguyễn, thế kỷ XIX năm Gia Long thứ năm (1806), gọi là đạo Thanh Bình; năm Minh Mệnh thứ mười (1829) gọi là trấn Ninh Bình; năm Minh Mệnh thứ mười hai (1831) gọi là tỉnh Ninh Bình.
Năm 1976, tỉnh Ninh Bình hợp nhất với tỉnh Nam Hà thành tỉnh Hà Nam Ninh;
Năm 1992, tỉnh Ninh Bình được tái lập. Hiện nay, tỉnh Ninh Bình có 6 huyện là Gia Viễn, Nho Quan, Kim Sơn, Hoa Lư, Yên Khánh, Yên Mô; 2 thị xã là Ninh Bình và Tam Điệp với tổng số 144 xã, phường, thị trấn.
Tỉnh Ninh Bình có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Nhân dân Ninh Bình sống chủ yếu bằng nghề sản xuất nông nghiệp, trồng lúa nước và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ngoài ra nhiều người còn làm các nghề thủ công truyền thống như: thêu ren ở Hoa Lư, dệt chiếu và làm hàng cói mỹ nghệ ở Kim Sơn, Yên Khánh…, đan lát mây tre ở Gia Viễn, Nho Quan, sản xuất đồ đá mỹ nghệ ở Ninh Vân (Hoa Lư). Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, nhân dân Ninh Bình phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm và cần cù, sáng tạo, năng động trong lao động sản xuất xây dựng quê hương đất nước.
Vùng đất Ninh Bình đã sinh thành và cống hiến cho đất nước nhiều người con ưu tú trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, tiêu biểu là anh hùng dân tộc Đinh Bộ Lĩnh, các nhà chính trị, quân sự, các danh nhân văn hóa như: Trương Hán Siêu, Ninh Tốn, Vũ Duy Thanh, Vũ Phạm Khải…Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng bộ, quân và dân Ninh Bình đã chiến đấu kiên cường, dũng cảm lập nên nhiều chiến công xuất sắc được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
TAM CỐC
Nếu đã đến Ninh Bình, du khách đừng quên đi thuyền tham quan Tam Cốc – Bích Động, được xem là vịnh Hạ Long trên cạn hoặc ghé đầm Vân Long hoang sơ là khu bảo tồn thiên nhiên với nhiều động vật quý hiếm. Khu du lịch Tam Cốc – Bích Động là một quần thể du lịch, một địa danh nổi tiếng từ xa xưa, thuộc địa phận xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình; cách thủ đô Hà Nội 100 km về phía Nam. Nơi đây vẫn giữ được nét nguyên sơ, thiên tạo, với nhiều hang động, di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong và ngoài nước như: đền Thái Vi, Tam Cốc, chùa Bích Động, động Tiên, chùa Linh Cốc… Bích Động là một trong những danh thắng nổi tiếng nhất của Ninh Bình được mệnh danh là “Nam Thiên đệ nhị động” (động đẹp thứ nhì ở trời Nam), nằm trong dãy núi Ngũ Nhạc Sơn thuộc địa phận thôn Đam Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Năm 1773, cụ Nguyễn Nghiễm (thân sinh của đại thi hào Nguyễn Du) đã đến thăm động. Nhìn toàn cảnh núi, động, sông nước, đồng ruộng, bầu trời ở đây đều phủ một màu xanh nên cụ đã đặt cho động một cái tên rất đẹp và mộng mơ.. Tam Cốc có nghĩa là 3 hang: Hang Cả, Hang Hai và Hang Ba. Vào thăm Tam Cốc chỉ có một con đường thủy duy nhất dọc theo dòng sông Ngô Đồng, ra vào mất khoảng 3 tiếng đồng hồ. Từ bến đò Vân Lâm đến Hang Cả đi bằng thuyền khoảng 2km, du khách có thể ngắm nhìn cảnh trời mây non nước rất nồng nàn thi vị. Núi nối tiếp núi, cứ mỗi góc nhìn lại cho một dáng hình mới, thiên hình vạn trạng.
ĐỀN THÁI VI
Xung động Thiên Hương du khách đi bộ khoảng 50m nữa thì đến đền Thái Vi ( thái Vi Tử). Theo sách “ Thái Vi Quốc Tế Ngọc Ký” sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên- Mông lần thứ nhất (1258), vua Trần Thái Tông tròn 40 tuổi, nhường ngôi cho là Thái Từ Hoàng lân làm Thái Thượng hoàng về vùng núi Vũ Lâm tu hành dựng Hành cung Vũ Lâm, lập am Thái Vi ở giữa động Vũ Lâm ( một Hoàng về vùng núi Vũ Lâm tu hành dựng Hành Cung Vũ Lâm, xã Ninh Hải ngày nay). Khi ở đây Trần Thái Tông đã biến khu rừng rậm và vùng đất hoang hóa thành nơi cư dân cư đông đúc. Nhà vua chiêu dân lập ra làng văn lâm, khuyên nhân dân khẩn hoang được 155 mẫu ruộng. đó là căn cứ chỉ đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên- Mông lần thứ hai (1258). Công lao của Trần Thái Tông rất lớn. Vì vậy khi ông mất, nhân dân đã xảy đền thờ Trần Thái Tông, Hiển Từ Thái Hậu ( tức hoàng hậu Thuận Thiên) và Trần Thánh Tông, tên là “ Thái Vi Từ” vì nó là nơi hoàng đế nhà Trần xuất gia. Thái Vi Từ được xây dựng theo kiểu “ nội công ngoại quốc”. Điều đặc biệt ở đền Thái Vi Từ là tất cả các cột đá đều làm bằng đá xanh nguyên khối được chạm khắc rất công phu, tỷ mỉ, đường nét uyển chuyển tao nhã như chạm gỗ và có phần còn sắc sảo tinh túy hơn thế nữa. Những người thợ đá ở đây đã làm cho các cột có hồn, mang tính nghệ thuật cao.
ĐỘNG THIÊN HƯƠNG
Du khách thăm Tam Cốc xong ngồi thuyền lướt ra đến Bến thánh còn gọi là Bến Sính do Trần Thái Tông làm để vào am Thái Vi bằng đường thủy, lên bờ đi bộ khoảng 50m men theo đường chân núi bên tay trái là đền Thiên Hương Động ở núi Đồng Vỡ. Chân núi Đồng Vỡ trước đây bị sóng biển đẩy liếm mòn, khoét sâu hõm vào thẳng đều. Đây là những kỳ công hàng triệu năm đẽo gọt tuyệt vời của nước biển.
Động Thiên Hương ở lưng chừng núi có độ cao so với mặt đất khoảng 15m đi hai lối tả hữu bước lên cao 30 bậc. Diện tích nền động bằng phẳng khoảng 800m² với bề ngang 20m bề dọc 40m, chiều cao của động là hơn 60m. Điều độc đáo của động là phía có lối lên thẳng đứng đến tận đỉnh núi. Đỉnh núi rỗng, lộ thiên tròn có đường kính khoảng 6m. nằm gọn trong động là một ngôi miếu thờ bà Trần Thị Dung là con ông Trần Lý ở thôn Lưu Gia nay là xã Lưu Xá huyện Hưng Nhân tỉnh Thái Bình. Là con vua Lý Thái Tông, Thái tử Sảm mới 25 tuổi, chạy loạn về đây đã lấy Trần Thị Dung. Trần lý đã mộ quân các xã xung quanh phò vua Lý Cao Tông về chiếm lại Thăng Long. Cuối năm 1209, quân họ Trần rước vua Lý Cao Tông về kinh. Năm 1210, vua Lý Cao Tông qua đời. Năm 1211, Thái Tử Sảm 17 tuổi lên ngôi là vua Lý Huệ Tông lập bà Trần Thị Dung làm nguyên phi. Năm 1216, bà Trần Thị Dung sinh con gái đầu lòng là công chúa Thuận Thiên. Hai năm sau 1218 bà sinh con con gái thứ hai là công chúa Chiêu Thánh. Bà Trần Thị Dung được tôn làm hoàng hậu. Năm 1226, vua Lý Huệ Tông mất ở chùa Chân Giáo do trần Thủ Độ ép tử. Thời gian sau, bà lấy Thái sư Trần Thủ Độ. Bà có công lao lớn trong việc giao hòa Trần Liễu với trần Cảnh ( Trần liễu và Trần Cảnh là con của Trần Thừa, Trần Thừa lại là anh ruột của Trần Thị Dung. Trần Liễu lấy công chúa Thuận Thiên. Trần Cảnh lấy công chúa Chiêu Thành).
Hơn mười năm chung sống bên Trần cảnh ( vua Trần Thái Tông) hoàng hậu Chiêu thánh vẫn không sinh nở gì, nên Trần Thủ Độ ép vua Trần Thái Tông bỏ hoàng hậu Chiêu Thành lấy Thuận Thiên làm hoàng hậu vì Thuận Thiên đang có mang. Đó là năm 1237. Vì vậy, Trần Liễu ( là bố Trần Hưng Đạo) chống lại vua Trần Thái Tông và làm loạn. Nhờ có bà Trần Thị Dung, trần Liễu và Trần Cảnh đã hòa thuận. Bà giữ cho cơ nghiệp nhà Trần được yên ổn. Mùa xuân năm 1259, bà Trần Thị Dung qua đời. Vua Trần đã phong bà là “ Linh Từ Quốc mẫu”. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên trong “ Đạo Việt Sử Ký Toàn Thư” có viết ca ngợi bà: “ giúp đỡ nội trị cho nhà trần, Linh Từ có nhiều công to thế mới biết trời sinh ra Linh Từ là để mở nhà Trần.
“NAM THIÊN ĐỆ NHỊ ĐỘNG” – BÍCH ĐỘNG BÍCH
Động là một trong thắng cảnh nổi tiếng nhất Ninh Bình được mệnh danh là “ Nam Thiên Đệ Nhị Động” (động đẹp thứ hai trời Nam), sau động Hương Tích ở Hà Tây. Bích Động là “ Động Xanh”. Cụ Nguyễn Nghiễm (thân sinh của nhà thơ lớn Nguyễn Du) được triều đình giao cho việc phụ trách đắp đê Hồng Lĩnh ở phía nam huyện Yên Mô, có đến thăm chùa và đặt tên động vào năm 1773, triều đình vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng. Bích Động ở địa phận thôn Đăng Khê, xã Ninh Hải, Bích Động gắn liền với tên chùa Bích Động được xây dựng theo kiểu chữ Tam- Tam Cốc dọc theo sườn núi từ thấp lên cao: Hạ Trung Thượng. Chùa Bích Động có thể có từ lâu theo Đại Nam Nhất Thống Chí đền đời vua Lê Diệu Tông ở niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705-1719)hai nhà sư Chí Kiên và sư Chí Thế mới xây dựng ba ngôi chùa Hạ- trung- Thượng như ngày nay đã được trùng tu nhiều lần liên tiếp. Phỏng đoán ba ngôi chùa đó được xây dựng từ năm 1705. Vì đến năm 1707 hai nhà sư Chí Kiên và Chí Thế làm bài minh vào tháng 8 cho khắc vào bia đá. Hiện nay, bài minh bia này vẫn còn ở chùa Bích Động. Nhìn lên những dãy núi cao vút bao quanh chùa Bích Động du khách thấy có 5 ngọn núi đứng xung quanh gọi là Ngũ Nhạc Sơn trong giống như 5 cánh hoa sen. Hai ngọn núi tả hữu đứng nhô cao như hai cột đồng trụ. Tương truyền ở Bích Động trước đây có một loài hoa cúc màu vàng nhỏ xíu gọi là Sơn kim cúc loại cúc này chỉ có ở đây và núi Dục Thúy lấy hoa đem pha với trà uống mắt sẽ sáng lên. Bích Động quả là một vẻ đẹp hoàn hảo vĩnh hằng.
NHÀ THỜ ĐÁ PHÁT DIỆM
Nhà thờ đá Phát Diệm cách Hà Nội 129 km về phía Nam, thuộc địa phận thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Tọa lạc trên một diện tích khoảng 22 ha, khu thánh đường Phát Diệm này là sự kết hợp hài hòa về nghệ thuật kiến trúc Âu châu và Á Đông, mang phong cách kiến trúc độc đáo vừa lớn lao, vừa trọng điểm trải rộng trong không gian cùng với phong cảnh sơn thủy hữu tình, non nước xanh biếc ngoạn mục.
Đây là một kỳ quan kiến trúc độc đáo nổi tiếng xây dựng chủ yếu bằng đá khởi công từ 1875 đến năm 1899 hoàn thành. Huyện Kim Sơn là một miền đất trẻ nhưng đến thời vua Tự Đức nhà thờ đá được tiến hành xây dựng ở đây. Hàng nghìn tấn đá có nhiều phiến đá lớn nặng trên dưới 20 tấn hàng trăm cây gỗ lim to nặng trên dưới 10 tấn và những nguyên vật liệu khác được chuyển về Phát Diệm.
Phương đình dài 24m, rộng 17m, cao 25m có 3 tầng xây hoàn toàn bằng đá phiến. Tầng dưới lớn nhất xây đá xanh vuôn vắn chia thành ba lồng. Các vòm cửa ở đây lắp ghép đá rất tinh xảo khiến những phiến đá hình hộp chữ nhật nặng hàng tấn vẫn dính lại với nhau bền chặt tạo thành những đường cong uyển chuyển mềm mại tài tình.
Nhà thờ chính được xây dựng năm 1891 gồm 5 lối đi vào bằng đá chạm trổ đẹp như ngoài phương đình. Ở trên là ba tháp mái cong. Nhà thờ chính dài 74m, rộng 21m, cao 15m có 4 mái. Trong nhà thờ có 6 hàng cột bằng gỗ lim trong đó có hai hàng cột giữa cao 11m chu vị mỗi cột là 2,35m nặng khoảng 10 tấn. Tất cả các cột ở đây được làm bằng nguyên một thân cây lim không có cột nào ghép. Gian thượng của thánh đường có bàn thờ đá lớn là một phiến đá nặng khoảng 20 tấn dài 3m, rộng 0,9m, cao 0,8m được đẽo gọt vuông thành sắc cạnh ba mặt tiền và hai bên đều được chạm trổ hoa lá bốn màu trông như được một khăn hoa màu thạch sáng. Toàn bộ bức vách phía sau bàn thờ là gỗ cũng được chạm trổ tinh vi sơn son thiếp vàng rực rỡ như các bức câu đối hoặc bàn thờ ở các ngôi chùa cổ. Toàn cảnh nhà thờ đá Phát Diệm là sáu nhà thờ- một công trình kiến trúc đồ sộ, chất liệu xây dựng bằng gạch, gỗ, chủ yếu bằng đá. Tất cả hiện lên nguy nga tráng lệ hài hòa với cây xanh cảnh vật, phản ánh một nền nghệ thuật kiến trúc điêu khắc đặc biệt là điêu khắc đá, tài năng thông minh và sức sáng tạo của dân tộc Việt nam mang phong cách dân tộc, phong cách Á Đông.
Đây là một quần thể nhà thờ kiểu Việt Nam, đậm màu sắc dân tộc, từ những chi tiết nhỏ trong điêu khắc đến kiến trúc tổng thể và trong từng nhà thờ. Bất kỳ chỗ nào trong điêu khắc đá và gỗ đều là những hình ảnh thân thuộc, gần gũi với con người Việt Nam và chỉ họ mới làm được điều kỳ diệu đó… Như thách thức với thời gian, hơn 100 năm qua Nhà thờ đá Phát Diệm vẫn còn nguyên vẹn và sẽ tồn tại mãi mãi.
CHÙA BÍCH ĐỘNG
Chùa Bích Động thuộc địa phận thôn Đam Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Đây là ngôi chùa nằm ở lưng chừng núi bán mái ra phía ngoài, một nửa ngôi chùa gắn vào hang động, một nửa lộ thiên.
Chùa còn được gọi là chùa Đông vì quay mặt ra hướng đông. Bích Động là một ngôi chùa cổ, dáng nét trang nghiêm mang đậm tính phương Đông. Núi, động và chùa đan quyện, hài hòa lại ẩn hiện giữa những cây đại thụ xanh biếc làm cho cảnh trí ở đây càng thêm thâm nghiêm, huyền ảo.
Chùa Bích Động nguyên có tên “Bạch Ngọc Thanh Sơn Đồng”- Mang ý nghĩa một ngôi chùa bằng đá rất đẹp và trong trắng như ngọc ở nơi sơn cùng thủy tận (Bạch ngọc thạch được ghép thành chữ Bích, còn sơn đồng ghép thành chữ Động- chùa Bích Động) là một công trình văn hóa-kiến trúc cổ kính, đường nét hoa văn chạm trổ rất tinh xảo.
VƯỜN QUỐC GIA QUỐC PHƯƠNG
Cách thủ đô Hà Nội 120km về phía Nam, với tổng diện tích 22.000 ha, giáp giới 3 tỉnh: Ninh Bình, Thanh Hóa và Hòa Bình, Vườn quốc gia Cúc Phương được thành lập ngày 7 tháng 7 năm 1962. Cúc Phương đã trở thành Vườn quốc gia đầu tiên và cũng là đơn vị bảo tồn thiên nhiên đầu tiên của Việt Nam.
Không chỉ là một khu rừng cổ đa dạng về thực vật, Cúc Phương còn là nơi lưu giữ nhiều loài động vật quý hiếm. Một số động vật quý hiếm được ghi vào Sách đỏ mà thế giới không còn, chỉ có ở Cúc Phương như: cá diếc hang, sóc bụng đỏ…
Đến với Cúc Phương, du khách sẽ không khỏi ngạc nhiên bởi khu bảo tồn này không chỉ là một vườn bách thảo, bách thú đồ sộ mà còn có các hang động kỳ thú với những tên gọi huyền thoại như: động Vui Xuân, động Trăng Khuyết, động Thanh Minh, động Chùa, động Thủy Tiên, động Phò Mã… Mỗi hang động là một “cung điện” lộng lẫy nguy nga với những nhũ đá đẹp mê hồn. Đặc biệt, năm 1966 các nhà khảo cổ học Việt Nam và thế giới đã tiến hành khai quật động Người Xưa và động Con Moong, tại các hang động này đã tìm thấy những ngôi mộ cổ với các bộ xương người hóa thạch còn khá nguyên vẹn, các công cụ đồ đá, cùng nhiều di vật khác cách ngày nay từ 7.000 đến 12.500 năm.
LÀNG PHÚC AN
Là quê anh hùng Trương Hán Siêu, tính rất cương nghị, giỏi về chính trị, chuộng thơ văn, giữ chức Hàn Lâm Học Sĩ đời Trần. Ông là một trong những quan tham mưu của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, hết lòng chăm lo cho việc quốc gia và là tác giả bài Bạch Đằng Giang Phú, sách Tế Tháp Kỷ, Hoàng Triều Đại Điển (sách viết chung với Nguyễn Trung Ngạn).Cố Đô Hoa Lư: Kể bắt đầu từ năm 968 Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế ở Hoa Lư thì kinh đô Hoa Lư tồn tại 41 năm (968 – 1009) trong đó 12 năm là triều đình đại Đinh (Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt) và 29 năm kế tiếp là triều đại Lê (mà người đầu tiên là Lê Hoàn lên ngôi Hoàng Đế hiệu là Lê Đại Hành). Vua Lê Đại Hành đã mở mang xây dựng cung điện làm cho kinh thành càng nguy nga tráng lệ. Đến năm 1010 Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Ngày nay du khách đến thăm Hoa Lư, trên nền cung điện năm xưa là hai ngôi đền cách nhau chừng 500 m (1,500 ft). Một đền thờ Đinh Tiên Hoàng và một đền thờ Lê Đại Hành đều nằm trên địa phận xã Trường Yên, huyện Hoa Lư. Cũng vì hai ngôi đền thờ hai vị Hoàng Đế rất gần nhau nên nhân dân quen gọi là đền Đinh – Lê.
LÀNG KIM BỒNG
Là nơi sinh trưởng Vũ Duy Thanh đời Tự Đức, tư chất rất thông minh, sách chỉ đọc qua một lần là nhớ, lại có tài ứng đối mẫn tiệp, kiến thức uyên bác vô cùng. Khi làm giám khảo khóa thi, ông đã nhìn ra nhân tài văn võ của Ông Bích Khiêm mà chấm trúng tuyển, trong khi các quan khác đã đánh rớt. Khi làm quan chỉ nghĩ đến ích nước lợi dân, ông đã từng tự ý ra lệnh cho quan địa phương Quảng Bình phát gạo cho dân đang gặp nạn đói, rồi sau mới cho triều đình biết. Ông là người sáng chế tàu thủy chạy bằng hơi nước giống theo kiểu Tây phương để tăng cường phòng thủ bờ biển; cũng như yêu cầu triều đình khai thác tối đa loại “đá dễ đốt” (than đá) ở Quảng Yên (trong khi các quan triều đình cho là đám ma quỷ phải trừ). Tiếc thay, Tự Đức không xem những sáng kiến này là trọng. Sau quân Pháp chiếm cả miền Bắc, khai thác tối đa mỏ than đá ở Hòn Gay. Ninh Bình còn là quê Nguyễn Tử Mẫn, danh sĩ đời vua Thiệu Trị; ông có văn tài cao, khí tiết vững và sở trường về quốc văn.
SÔNG VÂN VÀ NÚI DỤC THÚY
Núi Dục Thúy nằm ngay trên sông Vân Sàng, như một khối ngọc nổi lên giữa tỉnh lỵ. Núi có chùa Non Nước nên còn gọi là núi Non Nước và có đền thờ anh hùng Trương Hán Siêu đời Trần. Sông Vân bao bọc ba mặt núi Dục Thúy, chỉ còn một mặt nối đất liền. Gần tỉnh lỵ có núi Hồi Hạc và núi Cánh Diều (còn gọi là núi Ngọc Mỹ Nhân), hợp với sông Vân thành một bức tranh sơn thủy thiên nhiên tuyệt đẹp.
CỐ ĐÔ HOA LƯ
Từ Hà Nội đi 100 cây số là đến cố đô Hoa Lư, kinh đô của nước Đại Cồ Việt cách đây hơn 10 thế kỷ. Đứng trên núi Mã Yên Sơn nơi có mộ vua Đinh, ta có thể thu cả kinh đô xưa vào tầm mắt. Cố đô xưa rộng 300 ha trải dài trên địa phận các thôn Chi Phong, Yên Thành, Yên Thượng thuộc xã Trường Yên huyện Hoa Lư. Kinh đô Hoa Lư xưa rộng khoảng 300 ha, gồm Thành Ngoại, Thành Nội và Thành Nam, được bao quanh bởi hàng loạt núi đá vòng cung, cảnh quan hùng vĩ, khoảng trống giữa các sườn núi được xây kín bằng đất ken gạch, chân thành có gạch bó, đắp cao từ 8 – 10 mét.
ĐỀN VUA ĐẠI HÀNH
Cách đền vua Đinh chừng 50 m là đến đền thờ vua Lê Đại Hành. Điều đặc biệt ở đền thờ vua Lê Đại Hành là nghệ thuật chạm gỗ thế kỷ 17 đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo. Đền được xây dựng để tỏ lòng biết ơn của nhân dân đối với hai ông vua đã có công lớn trong việc xây dựng đất nước vào thế kỷ thứ 10.
ĐỘNG THIÊN TÔN
Ở làng Đa Giá, có hai lớp, bên trong có đền thờ đức Trấn Vũ từ hơn nghìn năm nay và có giếng ngọc nước trong, sâu ba trượng. Bên trái là động Long Thủy, bên phải là động Tượng Sơn. Động bên ngoài thờ Nam Tào Bắc Đẩu và các vị Kim Cương Hộ Pháp. Trên vách động có nhũ đá muôn màu sặc sỡ. Trước đây, từ mùng 4 đến mùng 10 tháng Ba âm lịch hàng năm, làng mở hội tại vùng này.
ĐỀN VUA ĐINH
Đền tọa lạc ở làng Trường Yên Thượng, xã Trường Yên huyện Hoa Lư trên khuôn viên rộng 5 ha. Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 17.
ĐỀN THÁI VY
Thờ Trần Thái Tông, Hoàng hậu Thuận Thiên và Trần Thánh Tông là ông vua đã có công rất lớn đối với làng Văn Lâm.
THẬP ĐẠO TƯỚNG QUÂN
Cha mẹ qua đời sớm, Lê Hoàn được một vị quan nhỏ là Lê Đột nhận về nuôi. Lớn lên ông đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn và đã lập được nhiều chiến công, Đinh Bộ Lĩnh giao cho ông chỉ huy 2.000 binh sĩ. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên nhà Đinh. Lê Hoàn có công lao trong cuộc đánh dẹp và được giao chức vụ Thập đạo tướng quân, Điện tiền đô chỉ huy sứ – tức chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả nước Đại Cồ Việt, trực tiếp chỉ huy đội quân cấm vệ của triều đình Hoa Lư. Lúc đó ông mới 27 tuổi.
Tháng 10 năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại, Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Lê Hoàn trở thành Nhiếp chính trong một tình thế đầy khó khăn. Các đại thần thân cận của Tiên Hoàng là Đinh Điền, Nguyễn Bặc cùng tướng Phạm Hạp nổi dậy chống lại Lê Hoàn nhưng bị Lê Hoàn nhanh chóng đánh dẹp, ba người đều bị giết. Phò mã nhà Đinh là Ngô Nhật Khánh bỏ trốn vào nam, cùng vua Chăm Pa với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão dìm chết.
Thấy triều đình Hoa Lư rối ren, nhà Tống bên Trung Quốc có ý định cho quân tiến vào đánh chiếm Đại Cồ Việt. Vua Tống nhiều lần viết thư sang dụ và đe dọa triều Đinh bắt phải quy phụ đầu hàng. Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga cùng tướng Phạm Cự Lạng và các triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lê Hoàn lên ngôi lấy niên hiệu là Thiên Phúc, quốc hiệu vẫn là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư. Lê Đại Hành cử Phạm Cự Lạng (Lượng), em của Phạm Hạp làm đại tướng quân. Đầu năm 981, vua nhà Tống phát quân sang đánh Đại Cồ Việt, cử các tướng Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Triệu Phụng Huân, Quách Quân Biện, Giả Thực, Vương Soạn cầm quân chia hai đường thủy bộ. Sau hai trận thắng lớn Bạch Đằng, Tây Kết, quân Lê giết được Hầu Nhân Bảo, bắt sống Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân, quân Tống rút lui về nước. Năm sau, Lê Đại Hành lại mang quân vào nam đánh Chiêm Thành vì trước đó vua nước này bắt giữ sứ giả của Đại Cồ Việt, đại phá được quân Chiêm Thành, giết chết vua Chiêm là Bà Mỹ Thuế.
Về các biến cố chính trị liên quan đến cái chết của Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn, có các nhà nghiên cứu, như Hoàng Đạo Thúy, đặt giả thiết không phải Đỗ Thích mà chính Lê Hoàn, cấu kết với Dương Vân Nga, đã ám sát Đinh Tiên Hoàng và con trưởng để chiếm ngôi .
Lê Đại Hành làm vua, ông cho xây dựng nhiều công trình, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp để chấn hưng đất nước.
Về đối ngoại, sử dụng chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhưng cương quyết. Có lần sứ Tống sang đòi vua quỳ nhận sắc phong của vua Tống, Đại Hành lấy cớ bị đau chân nên không quỳ. Sứ Tống không làm gì được. Để tránh việc đón tiếp sứ giả phiền hà tốn kém, Lê Đại Hành còn đề nghị nước Tống từ lần sau hãy cử sứ giả đưa thư đến địa giới và báo tin, triều đình Hoa Lư sẽ sai người lên biên giới để nhận chiếu thư của vua Tống. Vua Tống cũng chấp thuận. Sứ Tống là Lý Giác rất khâm phục Lê Đại Hành, làm thơ tặng ông, trong đó có câu: “Ngoài trời còn có trời soi nữa”, ý nói vua Lê không kém gì vua Tống.
Lê Đại Hành mất năm Ất Tỵ 1005, trị vì được 25 năm. Lê Đại Hành cùng Đại Thắng minh hoàng hậu (Dương Vân Nga) được thờ ở đền vua Lê tại huyện Hoa Lư, Ninh Bình.
Về tên “Đại Hành”: theo Đại Việt Sử ký Toàn Thư, khi vua mới mất mà chưa được đặt thụy hiệu thì được gọi là “Đại Hành Hoàng đế”. Có sách giải thích “đại hành” là đi xa hẳn không trở lại. Có sách giải thích “đại hành” là đức hạnh lớn (hành và hạnh viết cùng một chữ, âm cổ đọc như nhau). Do vua nối ngôi là Lê Ngọa Triều đã không đặt thụy hiệu nên “Đại Hành Hoàng đế” đã trở thành thụy hiệu của Lê Hoàn.
NÚI QUAN, HANG PHẬT, QUÈN MA
Từ thị xã Ninh Bình, du khách đi theo Quốc lộ 1 về phía Nam, sẽ gặp Thị xã Tam Điệp. Nơi đây trước năm 1945 vốn là khu rừng núi hoang vu thuộc huyện Yên Mô. con đường quốc lộ 1 ( trước kia là đường thiên lý từ Bắc vào Nam) chạy ngang qua thị xã xưa kia hoang vắng, nay đã trở nên sầm uất.
Thị xã Tam Điệp có ba phường và bốn xã. phía Bắc làng Quang Hiền, xã Quang Sơn, có một rặng núi chạy dài. Phía Đông đầu rặng núi ấy, tục gọi là núi Ông hay núi Quan, có một hang nhỏ. Cửa hang ẩn khuất dưới những tán lá cây cối um tùm, đứng dưới chân núi không trông thấy được. Trong hang có một pho tượng Phật khắc nổi trên vách đá. Người dân nơi đây thường gọi là Hang Phật.
Đường lên Hang Phật không khó. Cửa hang chính nằm ở độ cao cách chân núi gần 40m, khuất sau những tảng đá và cây cối. Cửa này không rộng mà cũng không cao lắm, người lớn phải cúi lưng mới vào được, bề rộng chừng 1,2m, cao hơn 1m. qua cửa phải đi theo một giải hẹp cheo leo gần chục mét, ta bước vào cửa hang có tượng phật, cửa hang này cũng hẹp như cửa vào chính, nhưng khi bước qua ta thấy vòm hang cao và rộng hơn, có chỗ cao hơn 3m âm u và tĩnh mịch, nơi này lại có một cửa hang thông ra hướng chính nam cao và rộng hơn hai cửa kia.
Pho tượng Phật được tạc nổi trên vách đá, cao 0,75m, nhìn ra cửa chính nam, không biết được khắc từ bao giờ, nhưng chắc chắn vào những thế kỷ trước khi con đường thiên lý ( quốc lộ 1 ngày nay ) ở đoạn cửa ngõ Bắc- Nam này có nhiều hoạt động quân sự cũng như dân sự sầm uất, bởi vì gần đó người ta còn phát hiện tấm bia khắc đá vào giữa thế kỷ 16 vào thời kỳ đầu nhà Lê Trung Hưng. Tấm bia khắc trên vách đá nói về việc mở đường núi Quan, dựng cầu qua sông và lập chợ ở khu vực làng Quang Liệt này.
Tượng Phật ngồi xếp chân kiểu kiết giá ( bắt chéo chân), theo cách ngồi của nhà sư thiền định, bàn tay để ngửa chồng lên nhau đặt trong lòng. Đầu đội mũ có chỏm nhọn, trước mũ có vòng tròn nhỏ, tai đeo vòng, sống mũi thẳng, đôi mắt lim dim trầm tư suy nghĩ và đôi lông mày cong nhẹ. Đường nét điêu khắc tinh xảo có thể cho ta thấy rõ tấm áo như dán vào thân và hằn lên những đường gờ cong tuyệt tác. Tượng ngồi trên một toà sen cao khoảng 0,20m, đang trong tư thế tĩnh toạ nhập thiền trong hang lạnh âm u và huyền bí.
Gần nơi hang Phật này, cũng thuộc dãy núi Ông (còn gọi là núi Quan) ở phía Bắc làng Quang Hiển, phía dưới chân núi có một bãi cỏ rộng ngăn cách với làng bởi một con sông nhỏ. Người ta bảo núi này có Quèn Ma. Tương truyền, tại nơi bãi cỏ ở chân núi này có Ma họp chợ ( chợ Ma). Người đướng từ xa nhìn nơi đây thấy quang cảnh như một phiên chợ họp đông vui náo nhiệt mua bán sầm uất, thậm chí còn có thể nghe thấy cả những âm thanh của một phiên chợ chiều. Nhưng khi đến gần thì không thấy gì, không một bóng người, không một tiếng động ngoài tiếng chim chóc trên cây bên sườn núi và tiếng gió thổi qua cành lá.
Huyền thoại nói rằng ở đó có Ma họp chợ, vì thế mới có câu:
“Nước độc lang ca,
Ma thiêng Quang Hiển.”
Dân làng Quang Hiển vẫn lưu truyền cho nhau nhiều mẩu chuyện quái dị về chợ Ma không biết có từ bao giờ, nhưng truyền qua người này đến người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, đã ăn sâu vào tâm trí người dân làng xưa kia, đến nỗi người nhát gan khi đi qua khu vực bãi trống dưới chân núi này, nơi” Ma” họp chợ, đều cảm thấy sợ hãi. Chỉ một thoáng động nhẹ, một con vật chạy trong bụi rậm hoặc một tiếng chim vỗ cánh bay là đã gây nỗi sợ hãi khiến họ phải hốt hoảng bỏ chạy.
Gần đây người ta còn phát hiện ở gần Quèn ma này một tấm bia khắc chữ Hán trên vách núi. Tấm bia đá có diện tích hơn 1 mét vuông, trên khắc 339 chữ Hán gồm 2 phần: phần văn xuôi và phần lạc khoản, gồm 1 khổ thư có 22 dòng thơ 4 chữ. Nội dung bài văn bia như sau: “Bia sửa đường núi Quan, dựng cầu gỗ, mở chợ”. Bia dựng để ghi việc Thiếu Bảo Từ Quận Công và Đông Sơn Hầu cho sửa đường núi Quan, dựng cầu gỗ và mở chợ.
Vua Thuận Bình muôn tuổi, năm thứ 7, Ât Mão, tiết thanh minh. Mây lành nở hoa ưu bát (hoa sung), mưa nhuần cây cỏ, bất thần nẩy ý, lại cảm duyên lành.Có quan Đề lĩnh trưởng Thái Bảo Từ Quận công, Đại Sĩ Đông Sơn hầu trên đường hành đạo phát tâm bồ đề thấy xã Quang Liệt, huyện Yên Mô trên có núi Quan gập ghềnh khó đi mới gọi thợ đá sửa thành đường bằng phẳng, dưới có dòng sông sâu nước trong mới gọi người đem gỗ làm cầu để có đường đi qua sông, lại dựng lều quán để người qua đường có chỗ nghỉ ngơi, mở chợ búa để dân trong vùng có nơi mua bán trao đổi. Điều đó chẳng những ngày nay có lợi mà còn mong muốn dấu vết sáng soi muôn thuở. Mới cùng mọi người chốn trần gian mở khai bến mới, lập hội một ngày đêm lên núi báu cùng hưởng tuổi thọ. Nay việc công đức đã vuông tròn bèn chạm khắc vào đá để lưu truyền mãi mãi.
Thập kỷ thứ 2 và thứ 3 của thế kỷ 16, triều đình nhà Lê suy yếu. Từ năm 1522, thế lực các vua Lê ngày càng tàn tạ. Dựa vào công lao của mình trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nông đân và các thế lực chống đối, lại được sự ủng hộ của một số quần thần, Thái Phó Nhân Quốc công Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Chiêu Tông, lập Lê Xuân lên làm vua tức vua Lê Cung Hoàng, sau đó đến năm 1527 nhận thấy sự bất lực của nhà Lê và thần dân trong nước đã theo mình, Mạc Đăng Dung bức vua Lê phải nhường ngôi và lập ra nhà Mạc.
Trong những năm trước đó, do đại hạn năm 1512 dân trong nước đói lớn và năm 1517 nạn đói lại hoành hành, nhân dân trong vùng chết đói nằm gối lên nhau. Các cuộc khởi nghĩa của nông dân bùng lên khắp nơi như Kinh Bắc, Sơn Tây, Hưng Hoá, Thanh Hoá, Nghệ An…
Quan quân triều đình phải đi đánh dẹp nhiều. Tiếp theo đó là sự tiếm ngôi của Mạc Đăng Dung mở đầu một thời kỳ mà sử học goi là Nam – Bắc triều ( 1533-1592). Một triều đình mới của nhà Lê hình thành ở Thanh Hoá, sử gọi là Nam triều và nhà Mạc ở phía Bắc gọi là Bắc triều. Các cuộc chinh chiến cứ xảy ra liên miên giữa Nam và Bắc triều trong nhiều thập kỷ, kéo dài đến tận cuối thế kỷ thứ 16, năm 1592 mới kết thúc nhà Mạc.
Trong tấm bia khắc trên vách núi làng Quang Liệt có nói đến hai nhân vật là Thái Bảo Từ quận công và Đại Sĩ Đông Sơn hầu là hai nhân vật của thời kỳ đó.Từ Quận công có thể là Võ Hộ (hay vũ Hộ). Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Vũ Hộ người Thù Du, huyện Nghi Dương( Hải Phòng), năm 1520, Quang Thuận thứ 5 khi ông mới có tước hiệu là quỳnh Khê hầu được Lê Chiêu Tông sai đi đánh Vũ Nghiêm Uy làm loạn ở Tuyên Quang. Ông là em rể của Mạc Đăng Dung đang có thế lực chuyên quyền.
Cũng theo Khâm định Việt sử thông giám cương định, năm 1523 Mạc Đăng Dung tiếm quyền lập Lê Xuân lên làm vua, nhưng hai thế lực một bên là Mạc Đăng Dung và bên kia là Lê Cung Hoàng (Lê Xuân) cùng với quần thần trung thành với nhà Lê tìm cách diệt nhau, các trận đánh xẩy ra ở nhiều nơi.
Năm đó (1523) Mạc Quyết, Vũ Hộ, Vũ Như Quế kéo quân đánh Trịnh Tùng ở Thanh Hoá. Đường đi chiến dịch phải qua đèo Tam Điệp thuộc huyện Yên Mô và qua làng Quang Hiển ( tên cũ là Quang Liệt), nên có thể sau khi thắng trận Vũ Hộ (khi đó là Quỳnh Khê hầu) cùng với Mạc Quyết ( khi đó là Đông Sơn hầu) ban ân cho dân làng được sửa đường, bắc cầu gỗ qua sông Quang Hiển và dựng chợ để dân có chỗ trao đổi mua bán.
Tấm bia khắc năm 1555, khi đó Vũ Hộ đã là Từ Quận công, còn Đông Sơn Hầu Mạc Quyết là em trai Mạc Đăng Dung đã được phong tước vương là Tín Vương từ năm 1527. Vậy thì có thể người soạn bia gần 40 năm sau là Vũ Tuyên Khanh đã lầm chăng?
Nhưng có một điều rất rõ mà trong tấm bia đá nói, đó là vào thời điểm Từ Quận công và Đông Sơn hầu cho sửa đường núi Quan, dựng cầu và lập chợ thì làng Quang Liệt khi đó đã là nơi cư dân đông đúc, bán buôn sầm uất và cũng là nơi có nhiều doanh trại quân đội đóng. Có thể pho tượng Phật trong hang Phật ở núi Ông cũng được tạc trong thời kỳ này. Ngày nay, dưới chân núi Quan có nhiều di tích như có vài nơi nền đất chắc và cao hơn mặt ruộng, phải chăng đó là nền của các đình, chùa, dinh thự,doanh trại còn sót lại đến ngày nay. Dù sao, hang Phật, Quèn Ma và tấm bia trên vách núi Ông (núi Quan) làng Quang Hiển, thị xã Tam Điệp là di tích và những thắng cảnh của đất Yên Mô, Tam Điệp. Đó là những tư liệu quý để các nhà nghiên cứu tìm hiểu về lịch sử xã hội vùng Tam Điệp, Yên Mô, Ninh Bình vào giai đoạn Nam – Bắc triều trong thế kỷ thứ 16.
Nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ
Kinh đô Hoa Lư được xây dựng và phát triển trong 42 năm (968 – 1010), là nơi có ba triều đại Đinh – Lê – Lý nối tiếp nhau lên ngôi. Đinh Tiên Hoàng, vị hoàng đế có công to lớn trong sự nghiệp thống nhất đất nước, khởi đầu việc xây dựng kinh đô Hoa Lư, tạo lập Nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên ở Việt Nam, đặt nền móng vững chắc cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của các vương triều tiếp theo.
Lê Đại Hành từng thắng Tống, bình Chiêm, cày ruộng tịch điền để khuyến khích nghề nông, tiếp tục xây dựng kinh đô to đẹp hơn… Lý Công Uẩn lên ngôi với điều kiện đất nước tiếp tục trên đà thịnh vượng để tương xứng với khí thế quốc gia Đại Việt, khí thế rồng bay, nên tháng 7 năm Canh Tuất nhà vua quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long – Hà Nội.
Để tưởng nhớ nơi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, ngày 7 tháng 7 năm 2000, thành uỷ, HĐND,UBND thành phố Hà Nội cùng với Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Ninh Bình tiến hành xây dựng công trình nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ ở khu di tích cố đô
Hoa Lư.
Nhà bia được xây dựng trên khu đất giáp sông Sào Khê, phía trước đền thờ vua Đinh, vua Lê. Khu vực này có thể là một trong những bến thuyền thuộc kinh thành Hoa Lư – thế kỷ X, là một trong những địa điểm xuất phát dời đô của vua Lý Thái Tổ. Công trình kiến trúc theo hình thức kiến trúc “phương đình” với mặt bằng hình vuông, mỗi cạnh là 11,2 m. Hệ thống cột gồm 4 cột cái, đường kính 0,52 m, 12 cột quân đường kính 0,42 m. Toàn bộ hệ thống cột, khung mái làm bằng bê tông cốt thép giả gỗ, vì kèo mô phỏng theo lối chồng giường.
Mái nhà bia được cấu trúc theo dạng chồng diêm 2 tầng, mỗi tầng 4 mái cân nhau, trên dán ngói mũi hài. Các đầu đao, bẩy được đắp theo dạng truyền thống. Toàn bộ chân cột được ốp đá, chạm hình cánh sen. Phần lan can có các mảng trang trí chạm khắc đá với các đề tài truyền thống như: tùng, mai, trúc,cúc, ngũ quả. Giữa lòng nhà bia đặt tấm bia đá cao 1,99 m; rộng 1,38 m (không kể phần đế). Mặt bia quay hướng bắc.Trán bia trạm hình mặt nguyệt và vân ám, diềm bia chạm hình hoa cúc dây. Công trình do Công ty Mỹ thuật Trung ương Bộ Văn hóa – Thông tin thi công. Đây là một công trình có độ bền vĩnh cửu, mô phỏng nghệ thuật kiến trúc truyền thống dân tộc, hài hòa với cảnh quan di tích.
Nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ ở khu di tích cố đô Hoa Lư được khánh thành ngày 29/9/2000, đúng vào dịp kỷ niệm 990 năm Hoa Lư – Thăng Long – Hà Nội.
Đền vua Đinh Tiên Hoàng
Đền vua Đinh Tiên Hoàng Đền tọa lạc tại thôn Yên Thượng, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, cách thị xã Ninh Bình khoảng 12km về phía Tây Bắc. Đền quay hướng Đông, trên khuôn viên rộng khoảng 5 mẫu, lấy núi Mã Yên làm án. Đền vua Đinh Tiên Hoàng kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”, đường đi trong đền theo hình chữ “vương”. Các công trình kiến trúc đối xứng nhau theo đường chính đạo, tên gọi phỏng theo tên gọi của cung điện thời xưa.
Lớp ngoài là Nghi môn ngoại (cửa ngoài). Tiếp đó là Nghi môn nội (cửa trong). Đi hết chính đạo, qua hai cột trụ lớn là đến sân rồng. Trên sân rồng ngay trước gian giữa của Bái Đường có sập Long sàng bằng đá xanh nguyên khối hình chữ nhật. Đây là một Long sàng đá đẹp và có giá trị nhất ở nước ta.
Từ sân rồng bước lên là Bái Đường. Trong Bái Đường treo bức đại tự có ba chữ Hán lớn “Chính Thống Thủy” (mở nền chính thống). Bái Đường thờ cộng đồng. Tiếp đến là Thiêu Hương, kiến trúc theo kiểu ống muống, thờ tứ trụ triều Đình. Đi hết tòa Thiêu Hương là vào Chính Cung, gian giữa thờ tượng vua Đinh Tiên Hoàng, đúc bằng đồng đặt trên bệ thờ bằng đá xanh nguyên khối. Gian bên trái thờ tượng Đinh Hạng Lang (ngoài), Đinh Đế Toàn (trong) là hai con thứ của vua Đinh Tiên Hoàng. Gian bên phải thờ tượng Đinh Liễn quay mặt về phía Nam, là con trưởng vua Đinh Tiên Hoàng.
Đền vua Lê Đại Hành
Cách đền vua Đinh Tiên Hoàng về phía Bắc 300m là đền thờ vua Lê Đại Hành, cũng xây dựng trên nền cung điện xưa của kinh đô Hoa Lư. Đền ở làng Trường Yên Hạ nên gọi là đền Hạ. Đền lấy núi Đèn làm án. Kiến trúc của đền cũng xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”, có thêm Từ Vũ, không có ngưỡng cửa đá và những tảng đá cổ bồng tôn cao như đền vua Đinh Tiên Hoàng.
Đền vua Lê Đại Hành còn giữ nguyên được lối kiến trúc và điêu khắc ở thời kỳ Hậu Lê. Đền vua Lê Đại Hành có ba toà: Bái Đường, Thiêu Hương, Chính Cung. Đền thấp hơn đền vua Đinh, lại có nhiều bức đại tự sơn son thếp vàng, nên tạo cảm giác tráng lệ, mang tính chất huyền ảo hơn. Bái Đường đền Lê Đại Hành có nhiều mảng chạm khắc gỗ rất điêu luyện và tinh xảo. Qua Bái Đường là đến Thiêu Hương thờ tứ trụ triều Tiền – Lê.
Nối với Thiêu Hương là Chính Cung, gian giữa của Chính Cung, trên bệ đá đặt tượng vua Lê Đại Hành. Gian bên trái tượng vua Lê Đại Hành là tượng Hoàng hậu Dương Vân Nga, quay mặt về phía đền Đinh. Gian bên phải tượng Lê Đại Hành, đặt trên bệ đá tượng Lê Long Đĩnh (Lê Ngọa Triều) là con thứ năm của vua Lê Đại Hành và là đời vua thứ ba của nhà Tiền Lê. Điều đặc biệt của đền Lê Đại Hành là nghệ thuật chạm khắc gỗ ở thế kỷ thứ XVII đã đạt đến trình độ điêu luyện và tinh xảo.
Chùa Nhất Trụ
Chùa nhất trụ nằm ở thôn Yên thành, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư. Chùa chỉ cách đền Lê Đại hành gần 100m về phía Bắc. Được xây dựng vào thời Tiền Lê, qua nhiều lần trùng tu, đến nay vẫn còn khá nguyên vẹn. Chùa quay hướng Tây, kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, phần ngang là Tiền đường, phía dọc là 4 gian “chuôi vồ” là nơi thâm nghiêm để thờ Phật.
Ngoài chùa chính, trong khu vực chùa còn có nhà thờ Địa tạng và thờ Mẫu. Đến thăm chùa du khách bước vào Tiền Đường ở cửa bên trái, tại đây có bệ thờ đặt tượng đức ông Mặt Đỏ, đối diện là bệ thờ đặt tượng Đức Thánh Hiền. Trong Tiền Đường còn treo một quả chuông lớn. Trong Thương điện – “chuôi vồ’’có bốn hàng tượng Phật được sơn son thiếp vàng lộng lẫy có bốn hàng từ cao xuống thấp.
Điều đặc biệt, chùa chỉ có một cột Kinh bằng đá nên gọi là Nhất trụ. Đây là cột Kinh đá do vua Lê Đại Hành làm ở niên hiệu ứng Thiên thứ hai, năm 995 để dâng nhà Phật. Cột Kinh đá có chiều cao 4,16m, gồm có 6 bộ phận đá được lắp gá vào nhau bằng các lỗ mộng và ngỗng tròn, không hề có chất kết dính nào. Điều này khẳng định sự tính toán tỉ mỉ, rất khoa học của các nghệ nhân. ở phần thân cột , tám mặt đều được mài nhẵn lì, chạm khắc khoảng 2500 chữ Hán. Nội dung bản khắc trên thân cột là khắc Kinh Đà La Ni, Thủ Lăng Nghiêm và bài thần chú ca ngợi sự bền vững của đức hạnh phật, sự to lớn bao trùm của trí tuệ, tài năng phật Như Lai… phải chăng nghệ thuật chạm khắc đá, thư pháp trên đá của nhân dân Hoa Lư đã có từ lâu đời, cách ngày nay trên 1.000 năm.
Khu vực chùa Nhất Trụ được xây tường bao quanh, vườn chùa trồng nhiều cây ăn quả, cây đại thụ, cây cảnh, cây hoa xanh tươi làm cho cảnh chùa như một chốn tịnh viên.
Chùa Bàn Long
Chùa Bàn Long là chùa thiên tạo và nhân tạo, lấy động núi và con người làm chùa nằm gọn trong Đại Tượng sơn ở thôn Khê Đầu thượng, xã Ninh Xuân, huyện Hoa Lư. Núi Đại Tượng là hình một con voi khổng lồ cao khoảng 200m chầu về kinh đô Hoa Lư xưa. Bàn long là ngôi chùa có rất sớm ở nước ta được hình thành trước thời Đinh, cách đây hơn 10 thế kỷ.
Tương truyền nhân dân địa phương phát hiện ra động từ lâu, thấy trong động có rồng cuộn nên lập chùa ngay từ đấy. Tấm bia ở vách núi Đại Tượng khắc vào thế kỷ thứ 16, niên hiệu Nguyên Hòa có ghi: “Từ thành cổ Hoa Lư men theo núi đá mà đi về phía nam đến làng Khê Đầu, ở đó có chùa Bàn Long. Đây là danh thắng từ ngàn xưa. Trải các triều Đinh, Lê, Lý, Trần chùa này càng thêm nổi tiếng”.
Chùa Bàn Long không xây Tam Quan, trước khi vào chùa phải đi qua một cây cầu đá cong cong. Những phiến đá xanh nguyên khối lớn đã được chạm, khắc ghép thành cầu. Đó cũng là điều độc đáo có ở các chùa trên vùng đất Hoa Lư. Gọi là chùa Bàn Long vì chúa Trịnh Sâm đã đến thăm, tay đề ba chữ lớn: “Bàn Long Tự” trên vách cửa động. “Bàn Long” là bệ rồng – bệ đá rồng ngồi. Có tên là Bàn Long vì trong động có nhũ đá dáng hình như con rồng ngồi, hình rồng nổi rõ cả vảy.
Nếu trời nắng hạn khi vảy rồng đó trong động long lanh tỏa sáng thì vài ngày sau trời sẽ đổ mưa. Người ta nhìn vảy rồng trong động để xem thời tiết nắng hay mưa vì thế: vào những năm hạn hán, nhân dân địa phương thường làm lễ cầu mưa ở chùa Bàn Long. Vào trong động, phía bên trái là tượng A Di Đà bằng đá xanh nguyên khối được tạo dựng từ khi lập chùa. Đây là một pho tượng phật bằng đá cổ xưa nhất còn để lại đến ngày nay.
Dưới pho tượng là ổ rổng đá cuộn tròn do tạo hóa kiến tạo thành. Các bài trí tượng phật trong động cũng giống như các ngôi chùa khác nhưng điều đặc biệt ở chùa Bàn Long là xung quanh các tượng Phật trên các vách động là những nhũ đá mà tạo hóa đã chạm khắc thành bốn con vật linh thiêng là Long, Ly. Quy, Phượng.
Tứ linh đá đó đều chầu về các tượng Phật đối xứng qua hai trục tung và hoành mà tâm là tượng Thích ca sơ sinh. Điều đặc biệt nữa là vách đá trên cao ở giữa động còn có một nhũ đá giống hình tượng Phật đang cưỡi ngựa trắng. Điều kỳ diệu này chỉ Bàn Long mới có được. Như thế mỗi không gian của vách động là những nhũ đá có hình rồng, tượng phật và những con vật linh thiêng khác thiên nhiên đã khéo tạc những mảng điêu khắc rất tinh tế đầy ấn tượng, mang sức quyến rũ khiến ta phải ngỡ ngàng.
Động Thiên Tôn
Động thiên Tôn ở chân núi Dũng Đương cao khoảng 60 mét, quay hướng nam thuộc thôn Đa Giá, xã Ninh Mỹ, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Toàn bộ khu vực động là một phong cảnh thiên nhiên trong lành yên ả. Vườn rộng lại có nhiều cây ăn quả, cây đại thụ. Động Thiên Tôn gồm có hai hang: Hang Ngoài và hang Trong. Hang Ngoài là hang thờ Phật.
Bước qua cổng vào hang du khách sẽ choáng ngợp trước một hang đá thiên tạo cao, dài, hình vòm cung, trông giống như miệng một con rồng khổng lồ. Trong hang có bầy một hương án bằng đá, cao 1,2m, dài 1,4m, ba mặt chạm nổi đường nét hoa văn và tứ linh, làm từ thời Nguyễn cách ngày nay trên 100 năm.
Bên trên cửa động được chạm khắc nổi ba chữ Hán lớn: Thiên Tôn Động. Vách đá phía Tây có treo một quả chuông đúc từ thời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng (1740 – 1786). Hang Trong còn gọi là hang Tối. Ngay cửa hang có một Long Đĩnh làm toàn bằng đá xung quanh đều chạm khắc nổi rồng mây. Trong tòa Long Đĩnh chỉ đặt một tượng Thiên Tôn bằng đồng, đứng trên lưng rùa. Tượng được trang trí nhiều mầu sắc rực rỡ. Hai tay thần để trước ngực, nắm trắc đốc kiếm thần, chống mũi kiếm xuống lưng rùa. Vì thế động được gọi là động Thiên Tôn
Điều độc đáo ở động thiên tôn là tất cả các đồ thờ đều làm bằng đá và các con rồng được chạm khắc chủ yếu theo kiểu rồng thời Lý uyển chuyển, mềm mại, dáng thanh tú. Đó là những khối đá có hồn, thể hiện tài năng sáng tạo, trí thông minh và đôi tay vàng của các nghệ nhân thời xưa. Chùa Thiên Tôn quay hướng Tây dựng bằng những cột đá. Trong chùa đặt nhiều tượng Phật sơn son thiếp vàng. Núi Dũng Đương cùng với hai núi Nương Sơn và núi Voi hợp lại như một cổng thành đá hùng vĩ bảo vệ kinh thành Hoa lư.
Không những thế động thiên Tôn còn gắn liền với tên tuổi Đinh Bộ Lĩnh từ thủa chưa lên ngôi Hoàng đế. Trước lúc đem quân đi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh đã sửa lễ vật vào cầu đảo trong động để mong được thần giúp đỡ, tương truyền lời cầu của Đinh Bộ Lĩnh linh ứng, thần Thiên Tôn đã giúp ông đánh tan 11 sứ quân khác. Về sau nơi đây nhà vua cho xây cất nhà Tiền Tế và Kính Thiên Đài là nơi tiếp đón các sứ thần nước ngoài trước khi nhà vua cho vào bệ kiến.
Trước cách mạng tháng Tám, động Thiên Tôn là nhân chứng lịch sử chứng kiến một sự kiện quan trọng, hơn một vạn nhân dân ở các huyện đã hội tụ trước cửa động mít tinh biểu dương khí thế cách mạng, sau đó đoàn người kéo về đánh chiếm Ninh Bình. Như thế Động Thiên Tôn thờ cả tiên, phật, vừa là đền, vừa là chùa. Du khách đến đây, tâm linh sẽ được hướng thiện trong cõi phật, cõi tiên, chiêm ngưỡng tác phẩm điêu khắc đá tuyệt đẹp của tạo hoá và con người.
Hang Động Tràng An
Kinh đô Hoa Lư (xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) có vị trí rất đặc biệt trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó là một quân thành vững chắc do thiên nhiên và con người làm nên. Cùng với kinh đô Hoa Lư, hậu cứ để bảo vệ kinh thành “Lui có thế thủ, tiến có thế công” chính là khu hang động Tràng An.
Xây dựng kinh đô Hoa Lư, Vua Đinh Tiên Hoàng rất chú ý đến yếu tố “Thành” để bảo vệ kinh đô. Thành Hoa Lư gồm những dãy núi đá vôi và các tường thành nhân tạo đan xen, nối liền nhau, nhấp nhô tạo nên một đô thành hết sức độc đáo.
Và cũng vì có Kinh đô Hoa Lư từ năm 968, khu núi non trùng điệp, hang động kỳ ảo, sông ngòi khuất khúc, thung lũng đan xen hòa quyện vào nhau ở phía Nam đã tạo nên một kỳ quan thiên nhiên hoành tráng, mỹ lệ đó chính là khu Hang động Tràng An nay là Khu du lịch sinh thái Tràng An.
Khu du lịch sinh thái Tràng An thuộc địa phận xã Trường Yên, xã Ninh Vân, xã Ninh Hải (huyện Hoa Lư), xã Gia Sinh (huyện Gia Viễn), xã Ninh Nhất, phường Tân Thành (thành phố Ninh Bình). Diện tích đất được sử dụng là 1.566 ha, trong đó diện tích núi và rừng đặc dụng được giao để quản lý, chăm sóc là 980 ha; diện tích đất để xây dựng cơ sở hạ tầng là 522 ha.
Khu du lịch Tràng An nằm về phía đông bắc tỉnh Ninh Bình, cách thủ đô Hà Nội hơn 90 km về phía nam, gần trục đường quốc lộ1A xuyên Bắc – Nam, giáp thành phố Ninh Bình có trục đường sắt xuyên Bắc – Nam, phía bắc giáp huyện Gia Viễn, phía tây giáp huyện Nho Quan, phía nam giáp khu du lịch Tam Cốc – Bích động, phía đông giáp quốc lộ 1A.
Một điều thuận lợi đặc biệt là khu du lịch sinh thái Tràng An nằm gần khu di tích cố đô Hoa Lư nên càng thêm lộng lẫy, góp phần tô điểm, khẳng định giá trị lịch sử của cố đô Hoa Lư. Trong khi khảo sát và thi công ở một số hang động và các thung, các nhà xây dựng đã thu được nhiều cổ vật từ thời Đinh và Tiền Lê như: gạch xây, gạch lát, cối giã, tiền đồng, bát đĩa, hũ vại, nhạc ngựa, quả cân bằng đá… Đó là những hiện vật quý hiếm, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc, tôn giáo, kinh tế… trong lịch sử dân tộc; là biểu tượng sống động, thể hiện ý chí quật cường, lòng tự tôn, niềm khát khao độc lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử.
Nếu du khách về xã Trường Yên, huyện Hoa Lư thăm cố đô Hoa Lư, không thể không đến khu du lịch sinh thái Tràng An để thưởng ngoạn sự hùng vĩ của núi non, thả hồn mơ mộng trước những hồ nước, hang động kỳ ảo cùng trời mây cao rộng, Tất cả hoà nhập vào nhau, tạo cho du khách một cảm giác nồng nàn, thi vị trong giang sơn cẩm tú, hình như tất cả cái đẹp của trời đất đã dồn góp về đây. Đúng là một vùng sơn kỳ thuỷ tú như những bức tranh thuỷ mạc đẹp mê hồn, ngay cả người khó tính nhất cũng phải yêu và mê.
Động Hoa Sơn
Hoa sơn là một hang động nằm ở lưng chừng núi – Có tên gọi núi Chùa – Phía nam cố đô Hoa Lư, thuộc địa phận thôn Áng Ngũ, xã Ninh Hòa, huyện Hoa Lư. Động ở độ cao khoảng 60m so với chân núi. Qua 153 bậc đá, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một hang động tuyệt đẹp của Ninh Binh. Núi non hùng vĩ, cây cối sum suê, không khí trong lành, khí hậu mát mẻ, lòng người thêm cảm giác thanh thản như đang bước vào cõi Bồng Lai…
Tương truyền động Hoa Sơn chính là nơi nuôi Ấu chúa thời nhà Đinh. Vì thế mà động còn có tên dân gian là “Phôi sinh tự” nhân dân quen gọi là “Chùa bà đẻ”.
Hoa Sơn vốn chỉ là một động tự nhiên, nhưng do thấy đẹp nên nhân dân trong vùng đã lấy động làm chùa, làm nơi thờ phật. Do đó có thể coi Hoa Sơn là một ngôi chùa “Thiên tạo”. Con người và thiên nhiên nơi đây đã cùng nhau tạo nên một danh thắng, một di tích thật là kỳ thú giữa chốn non nước hữu tình của kinh đô xưa.
Ngay trước cửa động, bên phải là hai pho tượng bằng đá, đó là tượng thờ hai ông bà có công tu tạo ngôi chùa – Ông là Nguyễn Hữu Non, bà là Lê Thị Sánh. Đây là hai pho tượng quý, không chỉ được chạm khắc bằng đá tinh tế mà còn thể hiện một nghệ thuật điêu luyện và đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Văn bia khắc ở ngang vách núi cũng cho biết hai ông bà đã sửa chùa năm Ất Hợi – Gia Long thứ 14 (1815)
Cái tên Hoa Sơn Động chính là do Vua Tự Đức đặt cho chùa – Động này khi nhà Vua tuần du ra Bắc và ghé thăm chùa. Nhà vua còn cho tập hợp các ngôi mộ thuộc Hoàng tộc Nhà Đinh và những người có công với Triều Đình lại rồi xây lăng Nghĩa Chủng ở phía Đông Nam, cách Hoa Sơn khoảng hơn trăm mét.
Động Hoa Sơn có chiều dài bằng chính chiều ngang của núi (khoảng 100m) với 3 hang liền nhau tạo thành một tam cấp – Đó là các hang: Hang Hạ, Hang Trung và Hang Thượng, cửa tiền của động rộng khoảng 12m, cao 20m. Hang hạ chính là một ngôi chùa “thiên tạo”. Bởi trong hang có thờ Phật, các pho: Tam Thế, Thiên Phủ, Phật Bà Quan Âm, Quan Âm Thị Kính… đủ cả. Trong chùa còn có 2 pho tượng Hộ Pháp cao to đứng ở hai bên – Dân gian gọi là ông Thiện và ông Ác.
Trong chùa có đôi câu đối với nội dung:
“Cảnh tú anh linh thiên cổ tại. Hoa Sơn tiên động ức niên tiền.”
(Cảnh đẹp thiêng liêng từ thiên cổ. Động Hoa Sơn có từ ngàn năm trước.)
Từ hang Hạ, qua 10 bậc đá là tới hang Trung. Hang có vòm cao khoảng 30m. Trần hang khá nhẵn, phía bên trái có nhiều nhũ đá tạo nên những cảnh sắc thú vị, mê đắm lòng người.
Hang Thượng cao nhất (cao hơn hang Trung khoảng 8m). Diện tích hang Thượng nhỏ hơn 2 hang trước, nhưng càng đi lên cao và vào sâu trong hang, cảnh đẹp càng đậm đà hơn, khiến du khách có cảm giác muốn đi mãi để khám phả sự kỳ ảo của thiên nhiên.
Động Hoa Sơn là một danh thắng nổi tiếng của đất cố đô Hoa Lư, là nơi du khách cảm thấy sự thư thái của tâm hồn và chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của tạo hóa.
Đền Vực Vông
Đền Vực Vông nằm cách Cố Đô Hoa Lư 3km về Phía tây bắc, nằm ngay bên dòng sông Hoàng Long, thuộc khu vực Vực Vông, thôn Chi Phong – xã Trường Yên – huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Đền được xây dựng vào thế kỷ 16, đền đã được trùng tu xây dựng lại nhiều lần. Lần gần đây nhất là từ năm 1996 – 1999 do nhân dân địa phương trong tỉnh quyên góp xây dựng. Đền được xây dựng theo kiểu chữ Công ( I) gồm ba phần: Bái đường, Trung đường và chính cung.
Bái đường thờ Quan Giám Sát, chính cung thờ bà Nguyễn Thị Niên, nhân dân địa phương tôn thờ bà là Mẫu Thoải – người đã có công trong việc trị thuỷ xoá bỏ tục lệ sấu do bọn cường hào địa phương cứu dân làng, đem lại sự yên bình và ấm no cho nhân dân Vực Vông và phụ cận xưa.
Truyền thuyết kể lại rằng:
“Vào thời nhà Mạc ( Mạc Đăng Dung) có vị tướng là Nguyễn Quyện được lệnh đưa quân về trấn thủ tại Trường Yên ( Hoa Lư – Ninh Bình ngày nay). Ông có người con gái tên là Nguyễn Thị Niên, rất xinh đẹp, lại được học hành, luyện rèn văn, võ, được cha cho đi theo đoàn quân.
Trong đoàn quân của Nguyễn Quyện có hai vị quận công. Một người họ Bùi, một người họ Phan. Nhân dân quen gọi hai vị quận công là Quận Mỹ và Quận Kế. Quận Kế là Phan Văn Ngạn. Quận Mỹ là Bùi Văn Khuê người làng Chi Phong ( Nay thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư). Cả hai Quận công đều đem lòng yêu mến người con gái tài hoa, con tướng quân Nguyễn Quyện và cũng đã ngỏ lời cầu hôn.
Nguyễn Thị Niên, sau bao lần thử thách, đã nặng lòng yêu Quận Mỹ. Còn Quận Kế cũng bao lần tìm cách quyến rũ, nhưng nàng đều khéo léo chối từ. Quận kế bèn chuyển sang thuyết phục Nguyễn Quyện. Nể Quận kế có thế lực với nhà vua, sợ liên luỵ đến công danh sự nghiệp công danh của mình, Nguyễn Quyện tuy không ưa Quận Kế, nhưng phải nhận lời. Ông cũng nghĩ rằng lấy Quận Kế, con gái Ông sẽ sung sướng vì Quận Kế có thế lực hơn. Bị cha ép gả, Nguyễn Thị Niên đau khổ nhưng không thể cưỡng lệnh cha, nàng thú thực đã yêu Quận Mỹ, nhưng ý cha như vậy nàng xin cha cho được thử tài hai người, ai thắng nàng chịu kết hôn.
Nguyến Quyện rất yêu quý con gái, nhất là từ khi vợ ông qua đời, ông chiều theo ý con nhưng dù sao trước sau nàng cũng phải thành hôn với quan Quận Kế.
Lúc ấy ở khúc sông đoạn Vực Vông (Trường Yên ngày nay), có một vụng xoáy lớn, hàng năm gây ngập lụt và tai hoạ cho dân làng. Vì vậy nơi đây có tục lệ rất dã man là hàng năm phải cúng lễ và sau đó ném một người con gái xuống vụng soáy cho thần thuồng ăn thịt. Nếu không thấn sẽ dâng nước gây tai hoạ cho cả vùng. Đã bao người con gái bị chết oan và bao gia đình chịu đau khổ mất con.
Sau bao lần thăm dò, nàng cùng quan Quận Mỹ cho đây là tục lệ dã man, vô lý, nhưng chưa tìm cách nào phá bỏ được tục lệ này để phá bỏ. Nàng đem việc đó ra thử tài hai Ông Quận, hễ ai tìm cách phá bỏ được tục lệ này để cứu những người con gái khỏi bị chết oan và bao gia đình đau khổ chịu mất con.
Quận kế rất khó chịu trước sự thử thách oái ăm này, nhưng hắn vẫn nhận lời để làm vui lòng người đẹp và cũng tin rằng mình sẽ thắng, bởi hắn nghĩ sẽ tâu đức vua ra lệnh phá bỏ tục lệ này.
Không ngờ phần thắng lại thuộc về Quận Mỹ. Chính ông đã cùng Bà Nguyễn Thị Niên thuê người giỏi lặn lặn xuống Vụng xoáy thăm dò và tìm ra nguyên nhân là: do dòng chảy bị đá ngầm ngăn làm đổi hướng. Năm nào nước lên to vực xoáy càng chảy xiết, hút thuyền bè nhấn chìm, gây nhiều thiệt hại trong vùng. Chỉ cần kè đá xoay lại dòng chảy thì không còn vực xoáy nữa. Họ đã thuê người phá đá trên núi lấp dòng chảy đối lưu, dòng sông trở lại yên ổn. Không đạt được sở nguyện, lại bị bẽ mặt vì thua cuộc, Quận Kế căm tức tìm cách trả thù và tìm cách giết chết Quận Mỹ.
Vừa trải qua một cuộc chia ly đau đớn với cha về kinh chịu tội oan uổng ,không biết sống chết thế nào ,nay lại được tin chồng tử trận ,bà Niên đau đớn vô cùng ,than khóc ngày đêm. Sau đám tang quận Mỹ, Quận Kế tìm mọi cách để bà Niên siêu lòng, hắn xin được thay bạn chăm sóc và mong được cùng bà kết nghĩa trăm năm, vì vẫn rất yêu quí bà. Nếu bà nhận lời thì hắn sẽ xin với triều đình tha tội và phục lại chức cho cha nàng .
Bà Niên căm giận, uất ức nhưng cố nén, bà nhận lời với hai yêu cầu: Xin tha cho cha nàng ngay và hẹn đoạn tang chồng, bà sẽ làm lễ tế chồng trên một chiếc thuyền đậu ở sông Hoàng Long sau đó sẽ làm lễ thành hôn cùng Quận Kế.
Quận Kế vô cùng mừng rỡ, hí hửng sửa soạn chờ đón ngày vui ấy. Đúng ngày hẹn, bà Niên bày đàn tế chồng ở trên một chiếc thuyền gần Gián Khẩu ( nay là Gia Trấn – Gia Viễn ). Cạnh đó là một chiếc thuyền khác được trang hoàng như là một thuyền như một thuyền cưới.
Bà cho mời Quận Kế xuống thuyền chuốc rượu. Kế vô tình uống khá nhiều say mền, bà sai người trói hắn lại và kể tội hắn đã hại cha bà, giết chồng bà. Lúc đầu hắn chối cãi sau đưa chứng cớ ra hắn sợ hãi van xin tha tội. Bà Niên sai chặt đầu kế đem sang thuyền bên tế lễ chồng. Tế song xuôi, mặc nguyên quần áo tang, bà nhẩy xuống sông tuẫn tiết theo chồng. Thi hài bà trôi dạt vào Vực Vuông, nhân dân vớt lên làm lễ an táng. Dân trong vùng đưa tang bà với lòng thương cảm, nhớ công ơn hai ông bà đã xoá bỏ hủ tục, cứu sống bao người. Họ xây ngôi đền thờ bà ngay nơi đó, nay gọi là đền Vực. Ngôi đền được tu sửa thờ cúng uy nghi, nhân dân thập phương đến lễ bái đông đúc.”
Đền có tiếng là linh thiêng, ở đây còn bức đại tự mà vua ban tặng 4 chữ “Tiết Liệt Chung Trinh” và bài thơ:
“Gián khẩu gieo mình giương tiết nghĩa, Vực Vông dựng lại cảnh cương thường. Hỡi khách má hồng qua lại đó, Dừng chân ngắm cảnh để làm gương.”
NAM THIÊN ĐỆ TAM ĐỘNG – ĐỊCH LỘNG
Động đẹp nhất thứ ba trời nam nằm ở xã Gia Thanh huyện Gia Viễn. Động có từ lâu lắm rồi nhưng tương truyền người dân ở đây đi kiếm củi đã phát hiện ra động năm 1739. Vào trong động có rất nhiều nhũ đá tuyệt đẹp, đặc biệt một nhũ đá có hình giống tượng phật nên họ đã lập bàn thờ phật ngay từ đó. Theo văn bia để lại trong thành phố mãi đến năm Canh Thân triều vua Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ nhất ( tức năm 1740) động mới được biến thành chùa để tho phật. Muốn lên chùa Địch lộng phải leo lên 105 bậc đá mới tới nơi, vì động ở lưng chừng một quả núi hùng vĩ. Do ở độ cao, động dài, nhũ đá lại thắt ở giữa nên gió thổi vào động phát ra âm thanh của đá nghe như tiếng sáo động chính là cây sáo khổng lồ bằng đá do sự sắp đặt của tạo hóa giữa đất trời mênh mông bao la. Tên Địch Lộng có nghĩa là thế ( Địch là sáo, Lộng là gió).
Theo tấm bia tạc năm Tự Đức thứ 7 (1854) ở chùa Địch Lộng vào năm 1821 trong chuyến ra Bắc Hà khi trở về kinh đô, vua Minh mạng nghe tiếng đồn Địch Lộng đẹp nên đã ghé thăm. Nhà vua ngự thuyền sắp phải chui qua Kẽm Trống thì có một viên cận thần ngồi chung thuyền đọc cho vua nghe bài thơ nôm kẽm trống của bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương: Hai bên thì núi giữa thì sông Có phải đây là kẽm Trống không? gió lật đật sườn non khua lắc cắc Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
Ở trong hang núi còn hơi hẹp Ra khỏi đầu non đã rộng thùng Qua cửa mình ơi nên ngắm lại Nào ai có biết nỗi vân bồng. Vua nghe xong mặt đỏ ửng bừng tức giận liền hạ lệnh cho thuyền đòi viên quan địa phương đến truyền bắt đốc thúc ngay nhân dân huyện Gia Viễn phải đào một con sông khác vòng cung quanh núi kẽm Trống không đi qua kẽm trống để ng thuyền tham quan Địch Lộng. Sông đào xong vua Minh Mạng ngự thuyền đến tham quan Địch Lộng quả là một cảnh đẹp diệu kỳ. Nhà vua liền tặng năm chữ “ Nam Thiên Đệ Tam Động”. Phòng tuyến Tam Điệp – Biên Sơn trong cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc năm 1788 – 1789, phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn giữ vai trò chiến lược quan trọng trong giai đoạn rút lui chiến lược cũng như giai đoạn phản công chiến lược. Đó là giới hạn rút lui cuối cùng của quân Tây Sơn ở Bắc Hà. Đó cũng là địa điểm tập kết của đại quân Tây Sơn do Quang Trung thống lĩnh từ phú Xuân kéo ra. Và đó cũng là bàn đạp của cuộc phản công chiến lược, là căn cứ xuất phát của các đạo thủy bộ hùng binh Tây Sơn tiến ra đại phá quân giặc.
Thế nhưng, sử sách xưa ghi chép sơ lược đến mức hầu như không thể hình dung được cách tổ chức phòng tuyến, thậm trí vị trí đèo Tam điệp ở đâu cũng không xác định được. Điều may mắn là tuy 187 năm đã trôi qua (1789 – 1976), nhưng phòng tuyến Tam Điệp lịch sử đó còn để lại một số di tích và dấu ấn đậm đà trong ky ức của nhân dân qua nhiều truyền thuyết dân gian phong phú. Gần đây, những người làm công tác sử học đã phát hiện và khảo sát những di tích đó.
Núi Tam Điệp, xét về mặt địa ly, là dải cuối cùng của vòng cung đá vôi Hoà Bình ăn ra gần sát biển. Đó là một dải núi đá vôi xen lẫn một số đồi đất ở vào vùng giáp giới hai tỉnh Hà Nam Ninh và Thanh Hoá. Núi Tam Điệp tự nó đã có giá trị như một bức tường thành thiên nhiên lợi hại ngăn cách hai vùng Ninh Bình – Thanh Hoá và án ngữ các đường thuỷ bộ từ Thăng Long vào Thanh Hoá. Đấy là đường Thiên ly qua đèo Tam Điệp; đường núi (hay thượng đạo) qua Phố Cát và đường thuỷ qua cửa Thần Phù.
Bộ binh Tây Sơn lui về giữ Tam Điệp là chiếm lĩnh một tuyến địa hình lợi hại, giành nơi dừng chân vững chắc trong phòng ngự cũng như tiến công. Quân Tây Sơn tổ chức phòng ngự nhằm ngăn chặn các đường giao thông qua Tam Điệp, chủ yếu là đường Thiên ly.
Đường Thiên ly qua ải Tam Điệp rồi men theo các vách núi đá vôi dựng đứng, băng qua một số thung lũng và trườn qua đèo Tam Điệp gồm ba đỉnh đèo, rồi vào đồng bằng Thanh Hoá. Di tích của con đường giao thông cổ đó đến nay vẫn còn từng đoạn và có nơi cách quốc lộ 1 đến 4 km về phía đông. Trên đỉnh đèo cao nhất với độ cao 110m còn tấm bia đá khắc bài thơ “ qua núi Tam Điệp “ ( quá Tam Điệp Sơn) của thiệu trị khi tuần du qua đây năm 1842. Đỉnh đèo phía Bắc cao 68m, phía Nam cao 80m. Qua đèo Tam Điệp ( hay đèo Ba Dội) mới hiểu được những lời thơ mô tả hết sức hiện thực và sinh động của “ bà chúa thơ nôm “ Hồ Xuân Hương.
“Một đèo, một đèo lại một đèo, Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo. Cửa son đỏ loét tùm hum nóc, Hòn đá xanh rì lún phún rêu.”
Trước ải Tam Điệp còn di tích thành lũy của quân Tây Sơn. Lũy dài 135m, chân rộng 15m, có chỗ cao 1,8m, nối liền hai mạch núi đá vôi nhằm chặn một lối đi qua đấy. Thành rộng gần một mẫu Bắc bộ, hình gần vuông, chân rộng 7m, có chỗ cao hơn 2m. Phía ngoài thành đều có hào, di tích còn lại có chỗ rộng 4m, sâu 0,5m. Thành nằm gần đường Thiên Ly và giữ như một tiền đồn phía bắc cửa ải. Những lũy này được xây dựng từ trước và quân Tây Sơn đã tu bổ, xây dựng khi lập phòng tuyến Tam Điệp. Vì vậy nhân dân địa phương thường gọi “đồn lính trú cổ triều” hay là ‘’lũy Quang Trung”, ‘’ đồn Tây Sơn” Biện Sơn là một hòn đảo ở phía nam Thanh Hóa, nay thuộc xã Hải Thượng, huyện Tĩnh Gia. Đảo rộng gần 4km vuông, dài hơn 4km, chiều ngang chỗ rộng nhất hơn 1km, cách gần 1km. Phía ngoài Biện Sơn còn một loạt đảo lớn nhỏ như đảo hòn Bung, đảo hòn Sò, hòn Sập … lớn nhất là đảo hòn Me.
Thủy quân Tây Sơn rút về giữ Biện Sơn là kiểm soát con đường thủy ven biển từ Bắc vào Nam và chuẩn bị sẵn một căn cứ tập kết và xuất phát cho các đạo thủy binh.
Phía Bắc đảo Biện Sơn có vũng Biện Sơn ăn lõm vào, ba bề núi bao bọc. Hàng trăm chiến thuyền có thể đậu an toàn trong vũng sóng yên biển lặng ấy. Trên đảo còn di tích ba thành nhỏ, xây theo lối ghép đó. Thành Đồn ở phía đông Bắc, hình tròn, đường kính phía trong là 72m. Thành dày 10m, có chỗ cao đến 3,5m, phía trên thành đắp thêm tường phụ cao 1m, dầy 1,2m.
Thành Hươu ở phía đông nam, cũng hình tròn, đường kính phía trong 13m. Thành dày 1,3m, chỗ cao 1,7m. Nhân dân gọi là ‘’ thành Hươu” vì gần đó có ghềnh đá hình con hươu.
Thành Ngọc ở nam tây đảo, phía trên vũng Ngọc ( vì vậy gọi là thành Ngọc), thành hình bán nguyệt, đường kính phía trong 22m và đã bị phá huỷ nhiều chỗ. Những thành trên đảo Biện Sơn đã có từ đời Lê và quân Tây Sơn sử dụng trong thời gian đóng quân ở đây. Sau đó, nhà Nguyễn sửa chữa lại, lập thành đồn Biện Sơn ( thành Đồn) và pháo đài Tĩnh Hải( thành Hươu). Di tích cả hai thành này đã qua sự tu tạo của nhà Nguyễn.
Những di tích trên là những tư liệu lịch sử rất quí, cho phép bổ sung những thiếu sót của sử sách, khôi phục một cách đầy đủ hơn phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn của quân đội Tây Sơn.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh, trên phòng tuyến Tam Điệp – Biên Sơn không xảy ra một trận đánh nào. Nhưng chính bằng chiến tuyến đó, một binh lực nhỏ của quân Tây Sơn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bí mật cho đại quân Tây Sơn do Quang Trung trực tiếp chỉ huy tiến ra tổ chức cuộc phản công chiến lược và cũng chính từ chiến lược này, 5 đạo quân Tây Sơn xuất trận, hình thành thế trận tiến công bất ngờ, thần tốc, giáng những đòn sấm sét nghiền nát hàng chục vạn quân xâm lược, lập nên chiến công kỳ diệu của màu xuân Kỷ Dậu năm 1789, giành lại độc lập, thực hiện thống nhất nước nhà.
Vườn quốc gia Cúc Phương
Cách thủ đô Hà Nội 120 km về phía nam, nằm lọt sâu trong lòng dãy núi Tam Điệp, có một mảnh đất với diện tích 22.200ha nằm trên địa phận 3 tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Hòa Bình đã trở nên vô cùng quen thuộc, thân thương, gợi nên tính hiếu kỳ cho biết bao du khách trong và ngoài nước, đó là Vườn Quốc Gia Cúc Phương.
Được thành lập ngày 7 tháng 7 năm 1962, Cúc Phương đã trở thành Vườn Quốc Gia đầu tiên và cũng là đơn vị bảo tồn thiên nhiên đầu tiên của Việt Nam. Với nhiều lợi thế về cảnh quan thiên nhiên, sự đa dạng về hệ sinh thái, các giá trị văn hóa lịch sử, từ lâu Cúc phương đã trở thành điểm du lịch sinh thái nổi tiếng và hấp dẫn.
Cúc phương có đặc trưng là rừng mưa nhiệt đới, xanh quanh năm. Bước vào rừng già nguyên thủy Cúc Phương con người cảm thấy sững sờ, nhỏ bé khi lạc vào thế giới hoang sơ đậm màu xanh kỳ vĩ trường tồn. Hàng chục người ôm mới hết chu vi những cây đại thụ ngàn năm cao trọc trời từ 45 đến 75 mét như cây Đăng cổ thụ cao 45m đường kính 5m, cây Chò Chỉ cao 70m đường kính 1,5m, cây Sấu cổ thụ cao 45m đường kính 1,5m, cây Chò xanh ngàn năm cao 45m, chu vi gốc 25m.
Rừng nhiệt đới là xứ sở huyền diệu của các loài phong lan với hoa lạ rất thanh tao, quý phái được ví như những cô gái kiều diễm điểm tô hương sắc cho rừng.
Chẳng thua kém thế giới thực vật, khu hệ động vật Cúc Phương cũng rất đa dạng và phong phú. Theo số liệu điều tra mới nhất Cúc Phương có 89 loài thú, 307 loài chim, 110 loài bò sát và lưỡng cư, 65 loài cá, và gần 2000 dạng côn trùng.
Trong các loài thú Cúc Phương, nhiều loài đã được xếp vào loại quý hiếm, như báo gấm, báo lửa, gấu ngựa…và nhiều loài được là đặc hữu của Cúc Phương như sóc bụng đỏ. ở Cúc Phương có một loài thú linh trưởng rất đẹp, ngoài Việt Nam ra chúng không còn tồn tại nơi nào khác trên thế giới, đó là loài Voọc mông trắng – một báu vật của tạo hóa, loài vật này đã được chọn làm biểu tượng của Vườn Quốc Gia Cúc Phương.
Cúc Phương là nơi cư trú của nhiều loài chim nhiệt đới với nhiều sắc lông, kích cỡ, âm thanh giọng hót. Trong tổng số 307 loài, Cúc Phương có nhiều loài chim quý hiếm chẳng hạn như gà lôi trắng, chim gõ kiến đầu đỏ, chim phượng hoàng đất, đuôi cụt bụng vằn… Chính vì vậy Cúc Phương được chọn là một trong những điểm xem chim lý tưởng của các nhà khoa học và những người có sở thích xem chim trong nước và thế giới.
Thế giới côn trùng Cúc Phương cũng đa dạng muôn hình muôn vẻ. Mùa bướm nở, rừng già như trẻ lại tưng bừng lấp lánh ngàn vàng, bướm nhiều vô kể đủ dạng, đủ màu phơi bày một bức tranh kỳ ảo.
Thuộc địa hình catxtơ nửa che phủ, Cúc Phương có nhiều hang động đẹp với cái tên rất gợi cảm như động Sơn cung, Động Vui xuân, động Phò mã…. Đặc biệt có một số hang động còn lưu giữ những di chỉ khảo cổ có giá trị, các nhà khoa học cho rằng đây là một trong những chìa khóa để tìm hiểu lịch sử Việt Nam và Đông Nam á, những di cốt này còn lưu giữ ở động Người Xưa, hang Con Moong.
Từ xa xưa Cúc Phương còn là nơi cư trú và sinh sống của đồng bào Mường với những nét văn hóa riêng. Đó là những nếp nhà sàn, những trang phục, những phong tục tạp quán, lễ hội cồng chiêng, những điệu hò … mang đậm sắc thái văn hóa dân tộc Mường.
Năm 2000 Cúc Phương đã phát hiện một hóa thạch động vật có xương sống. Hóa thạch lộ ra trong đá vôi phân lớp dày, hệ tầng Đồng giao tuổi Trias giữa. Theo kết luận ban đầu của Viện cổ sinh học Việt Nam đây là hóa thạch của một loài Placodontia (Bò sát răng phiến) sống cách ngày nay chừng 200 đến 230 triệu năm và là hóa thạch đầu tiên tìm thấy ở Đông Nam Á.
Đến với Cúc Phương ngoài những gì cảm nhận được mà thiên nhiên đã ban tặng, du khách còn được thăm các công trình nghiên cứu, các thành quả của dự án bảo tồn và đang thực hiện ở Vườn Quốc Gia Cúc Phương. Đây thực sự là những tài nguyên du lịch không chỉ có giá trị về mặt khoa học mà còn có giá trị cao về giáo dục ý thức bảo tồn thiên nhiên, môi trường, như Trung tâm du khách, Trung tâm cứu hộ các loài linh trưởng, Vườn thực vật…
Thiên nhiên Cúc Phương thật là kỳ thú, đến với Cúc phương là hòa nhập với thiên nhiên – cái nôi sinh của muôn loài. Với một hệ thống giao thông khá thuận lợi, nhà nghỉ đa dạng, các dịch vụ ăn uống, hàng hóa lưu niệm và nhiều công trình vui chơi đã và đang được xây dựng, chắc chắn Cúc Phương sẽ là điểm hẹn của tình yêu thiên nhiên và những giá trị văn hóa – thiên nhiên và con người Cúc Phương luôn chờ đón các bạn.
HOÀNG HẬU DƯƠNG VÂN NGA
Trên thế giới đã có rất nhiều hoàng hậu nổi tiếng tài ba nhưng chỉ làm vợ một ông vua. Còn bà Nga đã làm vợ hai vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Điều đó khẳng định bà rất xinh đẹp, có sức quyến rũ, thông minh nên mới được vinh dự ấy. Công lao lớn nhất của bà là lượng sức mình không đảm đương việc nước. Bà đã quyết định trao ngôi báu lại cho Lê Hoàn tức là truất cơ nghiệp của nhà Đinh, xây dựng nhà Tiền Lê. Đây là việc làm phù hợp với lòng trời, lòng dân. Bà là người phụ nữ thức thời yêu nước, nghĩ đến vận mệnh đất nước là trên hết, bỏ ngoài tai lời bàn tán, phản đối thậm chí cả những dư luận rất xấu của triều đình lúc bấy giờ. Và một lần nữa, vượt trên những người phụ nữ đương thời dám tự quyết đoán tình cảm riêng tư theo tiếng gọi của con tim bà chia sẽ hạnh phúc với Lê Hoàn, góp phần xây dựng đất nước sau chiến thắng. Bà qua đời vào năm 1000. Nga chính là người phụ nữ nổi tiếng, vô tiền khoáng hậu trong lịch sử dân tộc việt nam. Trong lịch sử nước ta cũng có hoàng hậu hai vua đó là công chúa Lê Ngọc Bình- em của công chúa Lê Ngọc Hân nhưng về tài đức thì không thể nào so sánh với Dương Vân Nga.
Hang Sinh Dược
Hang Sinh Dược thuộc địa bàn xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Nằm giữa các danh thắng cùng các di tích lịch sử lớn trong vùng. Hang Sinh Dược cách cố đô Hoa Lư khoảng 2km về phía Bắc, cách khu du lịch Tam Cốc Bích Động không xa về phía Đông Nam, dịch chuyển sang phía Tây nam là hồ Đồng Chương nên thơ và chiến khu cách mạng Quỳnh Lưu.
Là một hang xuyên thủy chạy dài theo lòng núi Mắt Rồng, hai đầu của hai cửa hang là hai thung lũng rộng. Bởi vậy du khách có thể vào thăm lòng hang bằng hai lối: lối thứ nhất qua cửa hang Vồng – thung Nước và lối thứ hai là cửa hang thung áng Nhồi.
Nếu du khách vào thăm hang qua cửa hang Vồng thì từ bến cầu Đen du khách lên thuyền đi bộ khoảng 100m là tới cửa hang Vồng. Sở dĩ có cái tên ”Hang Vồng” vì nơi đây đã được thiên nhiên ban tặng cho một chiếc cổng bằng đá, mái uốn vòm cong tựa một chiếc cầu vồng nhỏ bắc trên một dòng suối trong xanh mát lạnh. Vì vậy người dân nơi đây gọi là hang Vồng. Có lẽ hiếm có nơi nào có một chiếc cổng đẹp và lạ kỳ đến như vậy.
Từ cổng hang Vồng du khách phóng tầm mắt ngắm nhìn một lòng thung rộng mát hiện ra trước mắt du khách bốn bề được bao bọc bởi các dẫy núi đá vôi trùng điệp, đó chính là thung Nước. Nơi đây cứ đến mùa mưa cả thung ngập tràn nước, cá tôm từng đàn kéo về sinh sôi nẩy nở, đặc biệt có loài cá rô Tổng Trường to, béo đã trở thành món ăn đặc sản nổi tiếng của đất cố đô. Đây cũng chính là môi trường sống lý tưởng cho các đàn có về đây trú rét.
Lối vào thứ hai qua thung áng Nhồi một lòng thung rộng khoảng 3ha xung quanh là cây, hoa rừng và những cánh chim ríu rít chuyền cành, tới nơi đây du khách sẽ được khám phá một thế giới hoàn toàn khác lạ, thật là thanh bình yên ả, những thảm cỏ xanh mướt, trải dài như những chiếu nghỉ cho du khách sau một hành trình dài, không khí trong lành của thiên nhiên dường như xua đi cái nóng, cái rét cùng những lo toan thường nhật.
Du khách xuống thuyền để bắt đầu chuyến du lịch kỳ thú trong lòng hang Sinh Dược và rồi sẽ không khỏi sửng sốt ngạc nhiên giữa một rừng nhũ đá muôn hình muôn vẻ, ngắm nhìn khối nhũ đá nào cũng thấy lạ, ở mỗi một góc độ lại mang một dáng vẻ hình thù khác nhau. Trần hang là những vòm đá rủ xuống nhiều dải thạch nhũ lấp lánh, dáng hình rất lạ kỳ, giống như các con vật ở dưới nước và trên rừng.
Sự tưởng tượng phong phú của du khách sẽ làm cho cảnh vật nơi đây trở nên sinh động và có sức sống hơn. Có lẽ bởi nhũ đá nơi đây chưa bị tác động của bàn tay con người nên mới có được vẻ đẹp nguyên sơ rực rỡ đến như vậy. Trong hang có những cột thạch nhũ rủ từ trên trần hang xuống như được dát vàng, dát bạc lóng lánh. Trên trần động, ở nhiều hốc đá, là nơi trú ngụ của những đàn rơi đông đúc, khi có tiếng động là bay đi dáo dác… Chỉ tận mắt đến nơi đây chiêm ngưỡng mới thấy hết được vẻ đẹp của hang.
Hang Sinh Dược có hai ngách rất dài: Ngách hang lên thung cậy có chiều dài trên 500m, có một chiếu nghỉ lý tưởng cho du khách nghỉ chân, hoặc là nơi cắm trại cho những du khách thích sống trong khung cảnh thiên nhiên hoang sơ. Ngách thứ hai theo như lời kể của dân địa phương thì ngách này thông ra đền Trần (đền Nội Lâm) một di tích liên quan đến hành cung Vũ Lâm, nơi xưa kia các vua Trần đến đây tu luyện. Vì vậy ngách hang này vẫn còn là một bí ẩn, rất phù hợp cho các du khách ưa mạo hiểm và khám phá hang động. Hang Sinh Dược còn giữ nguyên được cái đẹp vốn hữu hình, nguyên sơ, tinh khiết của đá. Nơi đây còn hứa hẹn nhiều điều mới lạ chưa được khai thác hết.
Động Tam Giao
Từ thành phố Ninh Bình theo quốc lộ 1A đi Thanh Hóa, qua đền Dâu (ở thị xã Tam Điệp), rẽ tay trái đi khoảng 3km nữa là đến động Tam Giao. Động nằm trong một dãy núi đá vôi bắt nguồn từ Hòa Bình đổ về, chạy dài, là ranh giới giữa hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa.
Nước mưa chảy nhiều, ngấm vào núi đá theo đường kẽ nứt trong đá vôi, đục rỗng núi từ bên trong đã làm thành động. Động có từ lâu, che kín sau những lùm cây um tùm, rậm rạp. người dân ở đây đi chặt củi mới tìm ra động vào tháng 3 năm 1986.Động ở lưng chừng núi, có ba cửa vào ra và ba buồng giao nhau nên gọi là Tam Giao.Du khách thăm động phải đi theo sườn núi phía Tây hoặc phía Bắc, vào cửa Bắc, trên độ cao so với chân núi khoảng 150 mét. Cửa Bắc hướng về thị xã Tam Điệp. Cửa Nam động thấp hơn, hướng về phía động Từ Thức (Nga Sơn Thanh Hóa).Cửa tây động hướng về đèo Tam Điệp (Đèo Ba Dội ).
Vào qua cửa tây, bước vào động là buồng thứ nhất, được gọi là “Cung Bái Yết”, rộng khoảng 80m2. Từ nền động lên đến trần động cao khoảng 30 mét. ở gần cửa Tây, có khối nhũ đá tròn, chảy dài từ trần động xuống nền động, trông giống như 3 cột hiên nhà. Trong động có nhiều nhũ đá có hình thù voi chầu, hổ phục, sư tử múa, đại bàng bay, Phật Bà Quan Âm, ông Tiên, cô Tiên và những đám nhũ đá chảy dài như những thác nước…
Từ bên tay trái buồng thứ nhất, du khách bước sâu xuống gần 10 mét nữa là đến buồng thứ hai, được gọi là ” Cung Đàn Thần “, hay ” Động Âm Nhạc “. Trong động toàn nhũ đá chảy dài từ trên cao xuống nền động thẳng tắp như những dây đàn. Du khách chỉ cần cầm một hòn đá nhỏ, gõ vào ” những dây đàn” đó là có thể nghe được những âm thanh phát ra đủ bảy nốt nhạc. Nếu du khách gõ liền một mạch, nhịp tay nặng nhẹ, sẽ được nghe một bản nhạc độc đáo của cây đàn đá vang vọng, như không bao giờ dứt.
Muốn vào buồng ba, phải bước xuống một cái hang rồi bước sâu khoảng gần 20 mét nữa mới tới nơi. Buồng ba được gọi là “Cung Kim Cương”còn gọi là “Kho Kim Cương”. Đây là buồng dài, rộng nhất, cao sâu thăm thẳm, cũng có rất nhiều nhũ đá có hình dáng chim muông, hoa quả như: Chim Bói Cá, cây Vạn Tuế, dàn Bí Xanh, quả Phật Thủ, quả Khế…. vừa như hữu hình vừa như vô hình. Trong động cũng có các nhũ đá gõ vào sẽ phát ra những âm thanh trầm bổng như từ chốn xa xôi nào vọng xuống động.
Mùa đông vào đây du khách sẽ cảm thấy ấm áp, còn mùa hè thì mát lạnh. Khoảng giữa vách”Cung Kim Cương” có dòng nước chảy ngầm từ trên cao xuống, tạo thành một dòng nước nhỏ dài vài mét, nước không bao giờ cạn, trong vắt, được gọi là ” Suối Giải Oan “.
Men theo “Suối Giải Oan “, chui sâu xuống một cửa hang nhỏ hẹp ở bên phải mới đến được “Kho Kim Cương”. “Kho Kim Cương ” như một ngôi nhà hình tháp, cao khoảng trên 20 mét. Điều kỳ lạ là,khi có ánh đèn pin hoặc có ánh sáng chiếu vào, du khách sẽ nhìn thấy một vách động ánh sáng như nhảy múa trong màn đêm, nhũ đá phát ra sắc mầu lấp lánh sáng long lanh như được khảm bạc, dát vàng, như kim cương. Nền” kho Kim Cương” rất phẳng, rộng khoảng 20m2.
Từ “Kho Kim Cương”, du khách ra theo đường đã vào, bước lên nèn buồng ba, đi thẳng xuống bên phải là một khang sâu thăm thẳm. Hang này có “lối lên trời”, tức là có đường leo lên đến tận đỉnh núi nhìn thấy trời xanh và có “lối xuống âm phủ” là đường xuống hang sâu, càng xuống miệng hang càng nhỏ dần, trần hang càng cao, với nhiều ngóc nghách, sâu đến vài chục mét. có lẽ, chưa ai dám đi hết “lối âm phủ này”.
Đèo Tam Điệp
Đèo Tam Điệp là một tuyến phòng ngự rất lợi hại, mang vị trí chiến lược quan trọng trong quân sự cũng như bức tường thành thiên nhiên án ngữ con đường thiên lý ra Bắc vào Nam.
Đèo thuộc thị xã Tam Điệp, cách phía Nam thị xã Ninh Bình khoảng 18 km. Nơi đây có 3 dãy núi chạy suốt từ Hòa Bình về. Chỗ đá hạ thấp xuống gọi là đèo. Từ bắc vào đến địa phận này có ba đèo liền nhau nên gọi là Tam Điệp. Đèo thứ nhất cao 68m, đèo ở giữa cao 110m, đèo thứ ba cao 80m (so với mặt nước biển).
Đèo Tam Điệp còn gắn liền với một sự kiện lịch sử. Tháng Chạp năm Mậu Thân, tại nơi đây vua Quang Trung đã mở tiệc khao quân ở đèo Tam Điệp trước khi ra bắc lần thứ hai.
Đèo Tam Điệp không chỉ là một thắng cảnh đẹp mà còn là một di tích lịch sử nổi tiếng đã đi vào thơ văn của các thi sĩ xưa và nay.